09 03 X Thứ Năm Tuần XXIII Thường niên. (Tr) Thánh Phê-rô Cơ-la-ve (Claver), Linh mục. Hôm nay kỷ niệm ngày Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận tông tòa đầu tiên tại Việt Nam (Đàng Trong và Đàng Ngoài) và bổ nhiệm hai Giám mục coi sóc giáo đoàn Việt Nam với việc lo đào tạo linh mục bản xứ (09/9/1659). (Cl 3,12-17; Lc 6,27-38.)
Khi gửi huấn thị cho các vị thừa sai lên
đường đi Châu Mỹ La Tinh, Thánh Phanxicô Borgia đã viết cho họ rằng: nếu hoàn cảnh
đưa đẩy họ đến việc phục vụ những người nô lệ, “thì điều duy nhất phải làm là
lo giải phóng cho họ, chứ không phải là làm điều gì khác.”
Sự mù quáng của các Kitô hữu thời bấy giờ
đã không cho phép ngài đòi hỏi gì hơn, như người ta có thể nói ngày nay, là cầm
đầu cuộc đấu tranh cho công bằng. Đều này cũng không hơn gì sự mù quáng hiện
nay của nhiều Kitô hữu đã không hiểu rằng việc phá thai mà hằng trăm hàng ngàn
người đang làm là “một tội ác ghê tởm” như công đồng Vatican II tuyên bố.
Sau khi chân nhận rằng “có những lời chí
trích chống lại việc chấp nhận cho có nô lệ,” Borgia ra lệnh “chỉ dùng những thổ
dân tự do và tự nguyện, là những người hiểu rõ việc họ làm và tự do muốn lao động
trong một thời hạn với một giá lương tương xứng mà ta sẽ thỏa thuận với họ.” Lối
xử sự này là một điều chưa từng nghe thấy đối với nhiều người thời bấy giờ, vì
ngay cả những người lương thiện thời ấy cũng nghĩ rằng ở Mỹ châu cần có những
lao động lực lưỡng làm thay cho họ, và đó là những người Phi Châu bị cưỡng bức
đem đi làm nô lệ.
Trong bối cảnh xã hội ấy, có một Giêsu hữu
Tây Ban Nha đã sống một cách hào hùng, người đó là Phêrô Claver.
Phêrô Claver khám phá thấy một vấn đề lớn
lao và rất nghiêm trọng. Ngài đã tìm ra một lối giải quyết theo cách thức của Mẹ
Têrexa: trở thành nô lệ hơn cả những người nô lệ để trả lại cho họ phẩm giá con
người. Sau khi thụ phong linh mục, ngài làm Năm Ba, rồi khấn lần cuối với lời
khấn phụ: suốt đời làm nô lệ cho người da đen: “tôi Phêrô Claver, mãi mãi là nô
lệ của những người Êthiôpi”. Chữ Ethiôpi lúc bấy giờ ám chỉ bất kỳ ai đến từ
Châu Phi, tuy nhiên chữ này lại đầy ý nghĩa vì nó trói buộc Phêrô Claver, người
đã muốn truyền giáo ở Phi Châu, theo dự án “Ethiopi” của chính thánh I-nhã.
Lúc ấy Phêrô Claver đã được 36 tuổi.
Ngài sẽ sống thân phận nô lệ của những người nô lệ. "Ngài đã ở đó, hôm
qua, để tiếp rước họ. Ngài đang ở đó, hôm nay, để tiếp nhận họ. Ngài sẽ ở đó,
ngày mai, để chào đón họ, và ngày mốt nữa, suốt mọi ngày trong 40 năm trường",
như vị tu huynh An-phong Rodriguez, người gác cổng ở học viện Montesion 40 năm
dài.
Đối với Phêrô Claver, khi được tin một
chiếc tàu nô lệ sắp đến, ngài chờ sẵn ở cảng. Tàu vừa cập bến, ngài xuống giúp
đỡ những người đau yếu, bệnh tật, thiếu ăn, thiếu mặc… Tiếp đến, ngài ở bên cạnh
họ khi họ bị dồn vào vào những khu tập trung và bị đem bán như súc vật. Rồi khi
họ đã được ông chủ nào đó mua về làm nô lệ, ngài thăm viếng, bênh vực khi họ bị
đối xử bất công.
Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô nuôi dưỡng
linh hồn ngài, và ban cho lời nói của ngài một hiệu quả tuyệt vời, soi sáng và
an ủi những người khốn khổ không còn hy vọng. Được sự trợ giúp của những người
trợ tả, người Phi Châu và Tây Ban Nha, Phêrô Claver thực hiện một cuộc Phúc âm
hóa thật lớn lao, công cuộc duy nhất có thể làm được vào thời ấy. Ngài đã cứu
giúp, dạy dỗ và rửa tội cho khoảng 100.000 người Phi Châu.
Năm 1650, cha Claver thoát chết sau cơn
bệnh dịch hạch, nhưng sức khỏe trở nên yếu kém. Cha bị quên lãng trong căn
phòng nhỏ hẹp trong tình trạng thiếu thốn chăm sóc. Cha từ trần ngày 8 tháng 9
năm 1654. Chính quyền thành phố - trong quá khứ đã không đối xử đẹp với cha,
nhiều lúc còn tỏ ra khinh miệt cha - trong dịp này lại đã làm đám tang ngài thật
trọng thể.
Ngài được Đức Thánh Cha Lêo XIII tuyên
thánh năm 1888. Hội Thánh biểu dương ngài như một Phanxico Xavier của người da
đen, đặt ngài làm quan thầy cho các xứ truyền giáo cho người Châu Phi, và cũng
làm quan thầy cho xứ Colombia.
Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết
lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên
Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của
Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ
có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có
một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của
Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài
trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên
Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì
người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.
Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn
tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ
đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho
kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: "Lạy Cha! Xin tha
cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã không rao giảng
bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha
thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn
gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ
Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì
chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên
Chúa đối với mọi người.
Yêu thương, tha thứ quả là điều vô cùng
khó. Chỉ nguyên việc không tìm cách trả đũa kẻ gây ra những đau thương bất hạnh
cho mình đã là khó, nói chi đến việc làm ơn, cầu nguyện cũng như chúc phúc cho
những kẻ thù nghịch với mình.
Khó nhưng đó lại là tiêu chuẩn thực hành
của người Kitô Hữu. Khó nhưng không phải là không làm được.
Trong Giáo Hội đã từng có biết bao vị
thánh làm được điều mà Chúa đã dạy. Đó là thầy phó tế Stêphanô. Trước giờ chết,
thày đã lớn tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu xin nhận lấy linh hồn con”;
và “xin đừng chấp tội họ”. Thánh tử đạo Việt Nam Emmanuel Lê Văn Phụng đã nói với
các con của mình rằng: Các con đừng tìm cách báo thù; quay sang các bạn hữu,
ngài nói: “Các bạn hãy tha thứ vì chính tôi đã tha thứ”.
Huệ Minh