I. VẤN ĐỀ MA QUỶ
1. Sự hiện hữu của ma quỷ
1.1. Thánh Kinh
- Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh
con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ
phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian
dối” (Ga 8,44).
- Satan (Tiếng Hebrew: sătan, địch thủ) hoặc quỷ (Tiếng Hy Lạp:
dabolos, kẻ vu khống): Kinh Thánh dùng cả hai tên đó để chỉ một nhân vật tự bản
chất là vô hình nhưng hành động hay ảnh hưởng được biểu lộ trong hoạt động của
kẻ khác (quỷ hay thần ô uế) hoặc trong cơn cám dỗ. Kinh Thánh rất dè dặt, chỉ
nhằm cho chúng ta biết có nhân vật đó và các mưu mô của hắn cũng như các phương
thế để chống lại các mưu mô đó (x. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh).
1.2. Sách GLCG
- Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên
thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt
khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người (x. GLCG 391, 414).
2. Công việc của ma quỷ
- Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa
(x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa
Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)
- Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là
sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa (x. GLCG 398).
3. Quyền lực của ma quỷ
- Ma quỷ tuy quyền năng, nhưng quyền năng đó không vô hạn vì chỉ
là loại thụ tạo, nên không thể ngăn chận công trình xây dựng và cứu độ của
Thiên Chúa (x. GLCG 395).
- Hoạt động của satan được cho phép bởi Thiên Chúa quan phòng.
Việc này là một mầu nhiệm lớn lao, nhưng chúng ta phải vững niềm tin, và biết
rằng: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài”
(Rm 8,28).
4. Chúa Giêsu và quyền thống trị của Người trên
ma quỷ
- Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong
tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8,
26-39, GLCG 539. 550)
- “Các Kitô hữu tin rằng trần gian này đã được dựng nên và bảo tồn
với tình yêu của Đấng Tạo Hóa, quả thật nó đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng
đã được giải thoát bỏi Đức Kitô, Đấng chịu đóng đinh và phục sinh để đập ta
quyền lực tử thần.” (GLCG 421, trích Gaudium et Spes s.2).
- Chúa Giêsu cho các môn đệ tham dự vào thừa tác vụ chữa lành của
Người: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được
nhiều quỷ…” (GLCG 1506, trích Mc 6,12-13; Mt 10,1.8; Lc 9,1).
5. Các cuộc trừ tà để xua đuổi ma quỷ
5.1. Định nghĩa trừ tà
(x. GLCG 1673)
Khi Hội Thánh, một cách công khai và có thẩm
quyền, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, cầu xin để một người hay một đồ vật được
Thiên Chúa bảo vệ khỏi ảnh hưởng của Ác thần và giải thoát khỏi ách thống trị
của nó, thì gọi đó là Trừ tà (exorcismus).
5.2. Các hình thức trừ
tà
- Hình thức đơn giản, việc trừ tà đã có trong
nghi thức cử hành BTRT.
- Còn việc trừ tà long trọng, gọi là “trừ tà đại thể” chỉ được
thực hiện bởi một linh mục, với sự cho phép của Giám Mục. Trong việc này, phải
tiến hành cách khôn ngoan, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Hội Thánh.
5.3. Giáo luật điều
1172
§1. Không ai có thể trừ tà cách hợp pháp cho những người bị quỷ
ám, trừ khi có phép đặc biệt và minh nhiên của Đấng bản Quyền địa phương.
§2. Đấng Bản Quyền địa phương chỉ ban phép
trừ tà cho một linh mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan, và có đời sống vẹn
toàn.
5.4. Lưu ý
- Việc trừ tà nhằm trục xuất ma quỷ hoặc giải thoát khỏi ảnh hưởng
của nó, nhờ quyền bính thiêng liêng Chúa Giêsu đã ủy thác cho Hội Thánh của
Người. Trường hợp bệnh tật, nhất là các bệnh tâm thần, thì việc chữa trị là
công việc của y khoa. Vì vậy, điều hết sức quan trọng là trước khi cử hành nghi
thức trừ tà, phải rất chắc chắn đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải là một
bệnh tật nào đó.
- Theo bác sĩ Hélot trong cuốn Névroses et Possessions, Le
diagnostic (Bệnh thác loạn thần kinh và chứng quỷ nhập, Cách chẩn đoán), thì có
thể nghi ngờ về sự hiện diện của ma quỷ nếu có những dấu hiệu sau đây:
*
Bệnh nhân bị co giật, khiến ta có thể nhận ra có một trí tuệ khác với trí tuệ
của bệnh nhân, và có lúc bệnh nhân bình thường, có lúc bất thường xen kẽ nhau.
* Bệnh nhân có những cử động dị thường kéo dài như: nhảy,
múa, mất thăng bằng, bò lê dưới đất, đập phá, đau đớn, té ngã mà không có
nguyên nhân rõ rệt, vặn cổ, vặn gáy....
*
Bệnh nhân có những biến chứng, đau đớn không chịu nổi, đột nhiên được chữa lành
bằng nước thánh, bằng dấu thánh giá, bằng Mình Thánh Chúa,...
* Bệnh nhân đột nhiên bị mất cảm giác, giác quan và cảm
tính, và có thể lấy lại được trong chốc lát nhờ cầu nguyện.
*
Bệnh nhân kêu la giống như thú vật, bị buộc phải tru tréo lên một cách vô ý
thức, nghĩa là sau đó bệnh nhân không còn nhớ gì nữa.
* Khi
nhìn một người bình thường, bệnh nhân lại thấy người đó dị thường, hay thấy
người đó là quỷ.
*
Bệnh nhân tự nhiên nổi giận khi thấy những vật dụng đã được làm phép, hay khi
thấy một linh mục, hay khi đi ngang qua một nhà thờ mà thấy người ta muốn vào.
*
Bệnh nhân không thể ăn uống hay gìn giữ được những đồ ăn thức uống đã được làm
phép.
- Và đây là những dấu hiệu xác nhận:
* Bệnh nhân nói tiếng lạ, hay hiểu được người nói tiếng
đó.
*
Bệnh nhân nói cho biết những chuyện ở xa hay còn trong vòng bí mật.
* Bệnh nhân biểu lộ những khả năng vượt quá tuổi tác hay
vượt quá điều kiện của mình, như lơ lửng trên không mà không bám hay dựa vào
đâu cả, đi lộn ngược đầu trên vòm nhà hay trần nhà, vẫn khư khư bất động bất
chấp những nỗ lực đẩy hay kéo của những người mạnh hơn hợp lại...
5.5. Nghi thức trừ tà
- Hiện nay chưa thấy có một bản nghi thức trừ tà chính thức nào
tại Việt Nam, Chỉ có công thức trừ tà trong Nghi Thức Rửa Tội.
- Đề nghị Ủy Ban Phượng Tự dịch sách Nghi thức trừ tà để dùng
thống nhất trong GH tại VN.
5.6. Tóm lại
- Theo giáo huấn Giáo Hội trình bày trên, cũng như theo LM chính
thức giữ chức trừ quỷ ở Roma thì có ba điều cần nhớ:
* có
ma quỷ, hiện tượng ma quỷ là có thật
* ma
quỷ có nhiều khả năng phi thường, và ma quỷ có thể gây ảnh hưởng trên con
người, kể cả thân xác, như: quấy, phá, hành, hại, ám và nhập.
*
Chúa mạnh hơn ma quỷ, nên ta cần giữ lòng tin. Không nên nhờ ma quỷ bảo vệ
mình.
- Ngoài ra để ngăn chặn sự tấn công của ma quỷ, cần giữ mình sạch
tội trọng và năng lãnh các bí tích. Hơn nữa nên tuyệt đối tránh mọi hình thức
tiếp xúc với ma quỷ.
II. VẤN ĐỂ NGOẠI CẢM
1. Định nghĩa (theo trungtâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương)
- Ngoại cảm là một khả năng đặc biệt của con người. Người có khả
năng ngoại cảm không sử dụng những giác quan bình thường, mà khả năng cảm nhận
bằng giác quan thứ sáu rõ ràng và liên tục hơn những người thường, như khả năng
nói chuyện với người chết, khả năng theo dõi con người, tiên đoán tương lai,
biết được quá khứ của một thực thể nào đó v.v…
- Thực ra, khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời
xa xưa. Các nước trên thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào
nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả quân sự. Đối với các bậc chân sư
Phật giáo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là chuyện bình thường, không
có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền định mà thành tựu Tam minh và
Lục thông.
- Trong khi đó, khả năng của các “nhà ngoại cảm” hiện nay có thể
xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực thấy rõ mọi thứ, không
ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất cả các dạng âm thanh) và
Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người khác).
2. Phân loại (theo trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông
Phương)
- Theo nguyên nhân, nguồn cơn:
*
Ngoại cảm bẩm sinh: Tức là sinh ra đã có khả năng ngoại cảm.
*
Ngoại cảm hình thành sau khi phải trải qua một biến cố ngoại cảnh : chấn
thương, bệnh tật...
*
Ngoại cảm có do rèn luyện theo những phương pháp đặc biệt.
- Theo tính chất, công năng:
*
Thần giao cách cảm (telepathy): khả năng giao lưu ý nghĩ giữa những người không
giao tiếp với nhau, không nhìn thấy nhau.
*
Tiên tri (precognition): khả năng biết trước các việc xảy ra trong tương lai.
*
Thấu thị (clairvoyance): khả năng nhìn thấy các vật ngoài tầm mắt hay bị che
khuất.
* Tâm
vận (psychokinesis): khả năng dùng năng lực tâm linh để di chuyển các vật thể.
3. Hiện trạng “ngoại cảm và việc tìm hài cốt”
Hiện nay, các “nhà ngoại
cảm” thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng:
- Khuynh hướng thứ nhất là các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt,
vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy và hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp
này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng khả năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm
và phát hiện hài cốt mà không cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Tuy
nhiên, vì nhà ngoại cảm “thấy khi mờ khi tỏ”, nên có thể phải điều chỉnh nhiều
lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt.
- Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, có những người tự xưng mình
là “nhà ngoại cảm”, có thể tiếp xúc với người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại
cảm thấy hài cốt của chính họ hoặc những người khác. Trường hợp này, “nhà ngoại
cảm” hoặc thân nhân của người chết cần phải thắp nhang cúng bái, gọi hồn… để có
thể biết được mộ phần của người đã khuất, rồi sau khi tìm được “hài cốt”, đôi
khi chỉ là “chút đất màu đen”… thì phải lập “Đàn” để cúng tế…
4. Giáo hội và vấn đề ngoại cảm
4.1. Nguyên tắc chung
- Đạo lý: Phạm vi chuyên môn của Giáo Hội là phán đoán hành vi tốt
hoặc xấu xét theo luân lý, dựa trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Về phương diện
này, những hành vi nào trái ngược lại với việc tôn kính Thiên Chúa đều bị ngăn
cấm :
*
Không ai được phép thờ lạy ma quỷ, hoặc kêu cầu chúng đến trợ lực.
*
Không ai được phép đòi buộc Thiên Chúa phải tỏ cho biết tương lai của mình.
*
Không ai được phép kêu hồn người chết. (Linh hồn những người chết ở trong tay
Chúa, chứ không đi lang thang đến không trung).
- Khoa học: Giáo Hội không can thiệp vào công việc nghiên cứu của
các nhà khoa học. Nói đến chuyện khoa học có nghĩa là tìm hiểu sự thực như thế
nào, hay chỉ là chuyện ảo giác, và tệ hơn nữa, chuyện lừa đảo, bịp bợm.
- Tâm lý: Có khi một chuyện không xấu xét về mặt luân lý nhưng có
hại cho sức khoẻ (dù thể lý hay tâm lý) thì người có trách nhiệm giáo dục phải
khuyên can. Sự ngăn cấm này nằm trong mối quan tâm mục vụ.
4.2. Trường hợp cụ thể
- Có nên cấm giáo dân nhờ các nhà ngoại cảm can thiệp trong việc
tìm hài cốt không? - Thưa, cần phải xác định tính cách khoa học của các nhà
ngoại cảm. Có đáng tin không? Hay cũng giống như mấy ông thầy bói? Dĩ nhiên là
khi nhờ các nhà ngoại cảm tìm hài cốt mà có “màu sắc” mê tín, bói toán, chiêu
hồn thì tuyệt đối là không được, vì không phù hợp với Đức Tin Kitô giáo!
- Phải giải thích thế nào về những trường hợp xem ra “rất chính
xác” theo chỉ dẫn của các nhà ngoại cảm? - Thưa, vấn đề ở đây thuộc về lãnh vực
khoa học. Tại sao có những người tìm được mạch nước để đào giếng? Thưa là bởi
vì họ có những “giác quan đặc biệt”. Như vậy, trong trường hợp chỉ là ngoại cảm
thuần tuý mà thôi, cộng với những bằng chứng khoa học xác thực, thì chúng ta có
thể chấp nhận được. Tuy nhiên, dưới khía cạnh mục vụ thì không nên khuyên người
giáo dân cậy nhờ những “nhà ngoại cảm” tìm hài cốt, vì người Công giáo chúng ta
có những cách thế khác để tưởng nhớ người đã khuất như xin lễ, dâng lời cầu
nguyện cho họ.
- Đối với những trường hợp tìm mộ có “màu sắc” mê tín dị đoan, có
được cừ hành các lễ nghi an táng Công giáo không? – Xin thưa là không! Lý do là
vì lễ nghi an táng chỉ đựơc thực hiện với thi hài người quá cố (Giáo hội bày tỏ
lòng tôn kính đối với thân xác đã được thánh hoá nhờ Bí Tích Rửa tội và là đền
thờ của Chúa Thánh Thần) chứ không phải với “nắm đất màu đen” (không bộc lộ
được những dấu hiệu khả thể của thân xác nữa).
III. HIỆN TƯỢNG GỌI HỒN, BÙA NGẢI, THƯ YẾM
1. Quan niệm về linh hồn của Giáo Hội Công Giáo
- Trong Thánh Kinh, từ linh hồn thường chỉ sự sống con người hoặc
toàn bộ nhân vị. Nhưng, từ đó cũng chỉ cái thâm sâu nhất trong con người, giá
trị nhất trong con người, nhờ đó con người là hình ảnh của Thiên Chúa một cách
đặc biệt hơn: linh hồn là nguyên lý tinh thần trong con người (x. GLCG 363).
- Sự thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ linh hồn phải được coi là
mô thể của thân xác, nghĩa là nhờ linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được
cấu tạo bằng vật chất, là một thân xác nhân linh và sống động, tinh thần và vật
chất nơi con người không phải là hai bản tính được nối kết lại, nhưng sự kết
hợp của chúng tạo thành một bản tính duy nhất (x. GLCG 365).
- Tất cả mọi người, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa duy
nhất, được phú ban một linh hồn có lý trí như nhau, nên có cùng một bản tính và
cùng một nguồn gốc…mọi người đều được hưởng cùng một phẩm giá (x. GLCG 1934).
2. Suy tư
- Theo Kinh Thánh và Giáo lý Công giáo, sau khi chết mỗi người đã
thể theo tội phúc mà bị phán xét, số nhận như vậy là được cố định vĩnh viễn đời
đời (x. GLCG 1021), và đi vào chốn dành cho mình rồi, sao còn có thể làm cô hồn
bơ vơ vất vưởng đi lang thang đây đó được nữa?
- Theo Giáo Lý, Thiên Chúa dựng nên mỗi con người là một hữu thể
gồm linh hồn và thể xác, thành một bản vị tự lập, tự chủ, có tự do, bất khả xâm
phạm (inviolabilité) bất khả thâm nhập (impénétrabilité). Bởi tính bất khả xâm
phạm và bất khả thâm nhập này, không ai có thể nhập vào người khác được.
- Vậy theo lý luận của một số nhà thần học, thì chỉ còn các ác
thần, quỉ, vốn là thần linh nhưng đã phản nghịch lại Thiên Chúa và muốn hủy
hoại kế hoạch của Thiên Chúa, là kẻ thù ghét tuông hạnh phúc loài người mới bất
kể tự do, tự chủ của con người, nghĩa là bất kể họ có muốn hay không muốn - cứ
xâm nhập họ, có thể không có lý do gì, có thể do bùa ngải của Thầy bùa, pháp
thuật…
- Thường nó không bao giờ tự nhận mình là Satan hay quỉ, mà nó mạo
tên người nọ người kia, có khi nó còn dám giả làm thiên thần, hay các thần
lành, Đấng Thánh nào đó… để cho người đời đừng sợ và dễ tin nó, nhiều khi còn
ban ra những lời rất tốt lành, đạo dức, hoặc thi ân giáng phúc, làm những điềm
thiêng dấu lạ, thậm chí có khi chữa lành bệnh, khiến cho chúng ta, nếu thiếu
cảnh giác sẽ dễ bị xiêu lòng, bị phỉnh gạt, lầm tưởng nó là hồn người hiện về hay
ngôn sứ của Thiên Chúa. Dù nó mạo nhận là ai đi chăng nữa, thì hễ “nhập xác”
bất hợp pháp thì chắc chắn chỉ Satan, bè lũ satan, quỉ dữ bộ hạ của nó vốn là
thần linh dữ mới làm.
- Như vậy, việc “gọi hồn người chết” cũng có thể được xem xét dưới
nhiều khía cạnh:
* Khoa học : Có đúng như vậy không, hay chỉ là bị ám ảnh?
* Đạo
lý : Chắc chắn là không được.
* Tâm
lý: Gây ra những sợ hãi lo âu, và chắc hẳn là không lành mạnh.
- Sở dĩ Giáo Hội cấm chuyện tiếp xúc với thế
giới bên kia, thì lý do là vì con người có thể tiếp xúc được với những thế lực
đen tối (occulte). Giáo Hội cấm vì chuyện đó quá nguy hiểm cho con người yếu
đuối.
- Giáo Hội cấm chiêu hồn hay những thứ liên
hệ khác với bùa ngải. Có thể cấm vì lý do nguy hiểm, bởi để làm được điều đó
thì chỉ có Chúa và quỷ mới làm được! Mà ta không nên chơi với quỷ.
IV. NHỮNG GỢI Ý MỤC VỤ
- Lời Chúa vẫn mãi không thay đổi. Mạc khải
của Chúa Giêsu Kitô là duy nhất và trọn vẹn. Tìm đến những phương thế như bói
toán, cầu cơ, xin xăm, là để làm dịu nỗi lo của con người một cách tạm thời,
nhưng tạo dịp cho con người tiếp xúc với quỷ, mất dần lòng tin vào quyền năng
và tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Người tín hữu nghiêm túc có niềm tin vào
Chúa thì sẽ tránh được lo âu, tránh được thèm muốn tìm biết về tương lai, vì tương
lai trong tay Chúa quan phòng.
- Không tin tưởng vào chuyện nhập hồn, oan hồn, người cõi âm (hồn
người chết) nhập vào người sống vì linh hồn người đã chết thì về với Chúa đề
được phán xét chứ không còn chuyện đi lang thang quấy nhiễu người sống.
- Không để bị mê hoặc bởi những hình thức nhập nhằng giữa đạo và
dị đoan thí dụ một trường hợp người bệnh được hướng dẫn thả 7 con vịt vào lúc
12 giờ trưa trong khi đọc Kinh Truyền Tin hay yêu cầu đọc kinh trước khi đốt
bùa cho uống. Đó là những cách lừa dối rất tinh vi để dụ dỗ người có đạo tin vào
một việc làm tà vạy.
- Có những trường hợp mượn danh nghĩa của một học thuật nào đó
(chưa có những nghiên cứu đầy đủ về khoa học) như phong thủy, nhân điện, ngoại
cảm... nhưng lại kèm vào đó những hành vi dị đoan như bùa chú, trấn ểm, cầu
khẩn thần ngoại giáo làm cho nhiều người hiểu lầm là vô hại. Điều này cần cảnh
giác cao vì rất dễ lầm lạc.
- Việc quan trọng là phải giáo dục các tín
hữu cách đầy đủ về mặt đức tin để cuộc sống của người Công Giáo phải diễn tả
việc tuyên xưng lòng tin cách sống động nhất là từ bỏ những việc làm của ma quỉ
cũng như nhưng mưu mô do chúng bày ra.
- Các linh mục phải ý thức mình là người có trách nhiệm săn sóc và
bảo vệ đoàn chiên vì thế đừng ngần ngại trong việc trợ giúp các tín hữu khi họ
phải đối diện với những mối đe dọa của thế giới tăm tối. Đừng bỏ mặc giáo dân
thậm chí có vị còn cho phép giáo dân tìm đến với những thày pháp, phù thủy là
tay chân của ma quỉ làm cho giáo dân lầm lạc mất phương hướng và bị ma quỉ
khuấy phá sau một thời gian chạy theo những hình thức tà vạy. Có những trường
hợp chính các tu sĩ, những người Công Giáo đạo đức lại thực hành những hoạt
động dị đoan sai trái làm cho các giáo dân khác hoang mang.
- Các linh mục cần xác tín mạnh mẽ quyền năng
của Chúa trên các quyền lực tăm tối nên đừng sợ hãi vì Thiên Chúa không để cho
chúng ta thua quyền lực ma quỉ. Điều quan trọng là phải xác tín về quyền năng
của Chúa Giêsu Kitô và sống cách lành thánh.
- Đừng sử dụng những dụng cụ ngoại giáo như roi dâu, dây ngũ sắc,
lông chó v.v... mà hãy chạy đến với những phương thế rất hữu hiệu mà Giáo Hội
đem đến cho ta như Nước Thánh, Thánh Giá làm phép, ảnh Chúa, Đức Mẹ và các
Thánh. Ngoài ra còn việc đọc Phúc Âm cũng là một phương rất uy lực làm cho ma
quỉ khiếp sợ, đọc Thánh Vịnh, đọc các kinh mà G iáo Hội đã chuẩn nhận như Kinh
Cầu Các Thánh, Kinh Cầu Đức Mẹ, thánh Giuse..., lần chuỗi Mân Côi. Về phần
người giáo dân phải cùng nhau ăn năn thống hối, từ bỏ tội lỗi để cho quyền năng
của Chúa hoạt động mạnh mẽ nơi bản thân mình.
Nhóm Thần học luân lý
UBGLĐT
GiaoLyDucTin.net