Mấy ngày qua, cơ quan truyền thông báo đài và mạng xã hội trong nước quan tâm rất đặc biệt tới cái chết bí ẩn của một thanh niên mới chỉ mới 19 tuổi từ quê ở tỉnh Bình Định lên TPHCM nhập học Đại học.

(Hình mang tính minh họa)
Tờ Thanh Niên online (TNO) ngày
17-2 vừa qua đã tường thuật chi tiết như sau:
Ngày 12-2-2022,
nạn nhân tên NVN 19 tuổi từ Bình Định vào bến xe miền Đông để đến trường nhập học.
Khi đến bến xe miền Đông, nạn nhân không liên lạc với người nhà, mà đi xe ôm đến
một trường đại học tại đường D2 (Q.Bình Thạnh), rồi đón xe khác để đến
một địa điểm khác trên đường D2. Tại địa điểm này, nạn nhân đi bộ đến một khách
sạn trên đường Ung Văn Khiêm (Q.Bình Thạnh) thuê phòng. Đến 03 giờ 55 sáng ngày
hôm sau 13-2, nạn nhân ra khỏi khách sạn, trên người mang theo ba lô, đi về
phía Tân Cảng, rồi rẽ vào hẻm 293 Ung Văn Khiêm. Camera gần nhất thể hiện lúc 04
giờ 03 phút sáng ngày 13-2, nạn nhân leo qua hàng rào đi ra hướng bờ sông để tự
tử.
Tờ báo TNO trích
dẫn trên cho cho biết tiếp: Qua khám nghiệm tử thi, nạn nhân chết do ngạt nước.
Khám nghiệm hiện trường trong ba lô của nạn nhân đeo sau lưng có một cục đá xi
măng khoảng trên 10 kg, phù hợp với hiện trường nơi nạn nhân tự tử. Phòng
PC02 TPHCM đang phối hợp với Công an Q.Bình Thạnh điều tra làm rõ nguyên nhân nạn
nhân tự tử. Theo diễn biến vụ việc, sáng 15.2, người dân phát hiện một thi thể
nam thanh niên trôi trên sông Sài Gòn (P.13, Q. Bình Thạnh). Công an Q. Bình Thạnh
sau đó phong tỏa khám nghiệm hiện trường, xác định thi thể được phát hiện là
nam sinh viên NVN (cư trú tại huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) được gia đình, người
thân trình báo là mất tích trước đó.
Được biết, do ảnh hưởng của
dịch Covid-19 nên em N. ở nhà học online. Ngày 11-2, em N. vào TPHCM để làm thủ
tục nhập học tập trung tại Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TPHCM thì xảy ra sự cố
trên. Gia đình N. thuộc diện làm nông, nghèo và em N. là một đứa con ngoan, hiền
lành, một học sinh chăm chỉ và học lực khá. Đặc biệt đây là lần đầu tiên em vào
TPHCM để nhập học. Khi vào TPHCM, em N. mang theo 1 túi xách, 1 vali, áo khoác,
nón…tất cả màu đen. Ngoài ra em cũng mang theo một số tiền là 2 triệu đồng để
trả phí xe cộ và tiền nhập học.
Cuối cùng, nguyên nhân cái
chết bí ẩn của em N. được cho là do tự tử.
Như vậy, bước đầu nguyên nhân
cái chết của em N. đã được giải mã. Đó là em N. đã nhẩy xuống sông tự tử. Nhưng
còn vấn nạn lớn hơn mà nhiều người đang rất quan tâm, đó là nguyên nhân vì sao
em N. lại chọn cái chết cho mình một cách đáng thương như vậy trong khi tương
lai của em đang rộng mở.
Một số người có trách nhiệm
như nhà giáo, nhà báo, phụ huynh và cả linh mục đang cố gắng tìm câu trả lời vấn
nạn “Tại sao em N. tự tử?” và đặt ra cho chúng ta một số vấn đề cần suy nghĩ và
chia sẻ.
1.- Vấn nạn nêu
ra từ phía gia đình và xã hội
Sau khi tin tức về nguyên nhân
cái chết của em N. được báo chí và cơ quan chức năng loan báo, nhà báo nổi tiếng
Trần Thu Hà (TPHCM) trên trang facebook (FB) cá nhân của mình ngày 17-2 đã đưa
ra nhận định như sau:
Nam sinh N. vào Saigon nhập
học và mất tích là một học sinh ngoan hiền học giỏi, 12 năm là học sinh giỏi, đậu
đại học hệ chất lượng cao, học kỳ I học
online điểm trung bình loại giỏi 8,6. Ai cũng tưởng em bị kẻ xấu sát hại. Công
an, mạng xã hội đã cất công tìm kiếm, rồi đau đớn nhận tin em đã tử vong. Công
an đã kết luận em tự tử, trong ba lô có cục đá ximăng nặng hơn 10 kg, camera
cho thấy 04h03 sáng em đã leo qua hàng rào bờ sông để xuống sông. Rất nhiều người
không muốn tin với kết luận này, nó thật khó chấp nhận. Nhưng thực tế theo thống
kê thì khả năng chúng ta chết vì chính mình cao hơn là khả năng ta chết bởi bàn
tay của người khác.
Như vậy nguyên do cái chết của
em N. là do em bị trầm cảm, từ đó dẫn đến quyết định tự vẫn. Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) cho biết hiện nay trên thế giới đã có hơn 350 triệu người đang mắc bệnh
trầm cảm và mỗi năm có khoảng 1 triệu người tự tử (trung bình mỗi ngày có 2900
người tự tử). Trầm cảm được ví như phần nổi của một tảng băng, chỉ 1/3 trường hợp
được chẩn đoán và điều trị tử tế. Thạc sĩ bác sĩ Lê Đình Phương chuyên gia về các lĩnh vực rối
loạn chuyển hóa, tim mạch, rối loạn trầm cảm, bệnh gan (Bv Pháp Việt TPHCM) đã
cho biết như sau: 15% dân số có trầm cảm nặng, tuổi từ 16-35; 25,4% người
dân có ý định tự tử; 15,6% có kế hoạch tự tử; 4.2% thực hiện hành vi tự tử
(3.78 triệu người VN) (Nguồn: Trung tâm Phòng chống khủng hoảng tâm lý
(PCP). Ngoài
ra, bác sĩ Lê Đình Phương cũng cho biết thêm tự sát thường là do trầm cảm. Lưu ý:
2/3 trường hợp tự sát có nguồn gốc từ trầm cảm.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), trầm cảm là căn bệnh phổ biến nhất trên toàn thế giới và đứng thứ hai
trong gánh nặng bệnh lý toàn cầu, chỉ sau bệnh lý mạch vành. Ước tính trên thế
giới có khoảng 350 triệu người bị ảnh hưởng bởi trầm cảm. Hậu
quả nghiêm trọng nhất của trầm cảm chính là hành vi tự sát. Theo thống
kê tại Việt Nam, số người tự tử hàng năm lên tới 36.000-40.000 người, cao gấp
3-4 lần số ca tử vong do tai nạn giao thông. Trầm cảm chịu trách nhiệm cho 75%
các vụ tự tử kể trên, còn lại 22% là do nghiện rượu, ma túy, cờ bạc và chỉ có
3% do tâm thần phân liệt, động kinh.
Theo thống kê, đến 80% dân số
sẽ bị trầm cảm vào một lúc nào đó trong cuộc sống của mình. Một số đối tượng
sau có thể dễ gặp phải trầm cảm hơn:
Trầm cảm ở phụ nữ: tỉ
lệ mắc trầm cảm ở nữ giới cao hơn nam giới, thường gặp nhất là trầm cảm sau
sinh. Trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên: do áp lực học tập,
hoàn cảnh gia đình thay đổi (bố mẹ ly hôn, bị bỏ rơi, thay đổi nơi ở), thay đổi
tâm sinh lý tuổi dậy thì vv…Trầm cảm ở những người làm các công việc có cường độ
làm việc và áp lực lớn như y bác sỹ, người làm công việc quản
lý, công nhân mỏ than…Trầm cảm ở người già: người già có
tỉ lệ mắc trầm cảm cao (~16%) do một số yếu tố như bệnh lý mạn tính, do cảm
giác cô đơn, mất người bạn đời,…Trầm cảm ở những người mắc bệnh nội khoa như: bệnh
lý tim mạch, nội tiết, thần kinh, ung thư, bệnh truyền nhiễm…Bệnh cảnh dễ làm nảy
sinh trầm cảm và ngược lại, trầm cảm có thể làm cho bệnh có xu hướng nặng thêm
và tăng nguy cơ tử vong.
Như vậy có thể thấy trầm cảm
là một căn bệnh rất phổ biến, ai cũng có thể mắc trầm cảm. Tuy nhiên, trên thực
tế có tới 80% người mắc trầm cảm không được phát hiện. Điều đó có nghĩa là
trong 10 người mắc trầm cảm thì chỉ có 2 người là được phát hiện và điều trị.
Ngoài những lý do về mặt nhận thức, tâm lý xấu hổ, sợ bị kỳ thị đối với bệnh trầm
cảm thì một nguyên nhân quan trọng không kém khiến cho bệnh trầm cảm không được
phát hiện sớm đó là những triệu chứng bệnh
rất dễ nhầm lẫn vào các bệnh lý khác.
Nhắc lại, ngày 20-2-2021 trên
trang mạng vnexpress.net đăng bài viết có tựa đề: “Ba kiểu gia đình dễ khiến trẻ trầm cảm”, theo đó tác giả liệt kê các
kiểu gia đình ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý trẻ em như: a- Có bố mẹ luôn phủ nhận cố gắng của con cái và đánh giá thấp chúng; b-
Gia đình thờ ơ với tình cảm của con; và
c- Gia đình quá kỳ vọng vào con cái khiến
chúng dễ rơi vào tình trạng trầm cảm.
Bài báo trên đã trích đăng bài
viết của An Ca là một nhà tâm lý học Trung Quốc, cho hay: Cách đây ít lâu, một
video trên mạng xã hội Weibo (TQ) thu hút sự quan tâm của hơn 300 triệu người.
Trong video này, một cô gái họ Mã nói rằng bản thân đã vật lộn với bệnh trầm cảm
bảy năm qua, nhiều lần muốn tự tử. Nhưng khi cô nói với mẹ, bà trả lời: ‘Con vẫn luôn như thế, đã bao năm rồi? Con vẫn
tỏ ra mình khác biệt, bản thân không tự chịu còn bắt ai chịu thay’. Thật không
thể tưởng tượng khi con cái bị trầm cảm mà cha mẹ lại chẳng biết gì,
thậm chí còn trách chúng là giả vờ hay đạo đức giả, nhiều độc giả đã để lại khá
nhiều bình luận bên dưới video của Mã.
Học giả An Ca cho biết tiếp:
Vào năm 2012, một nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát về chứng trầm cảm của gần
3.000 thanh thiếu niên từ độ tuổi 10-25 tại Trung Quốc. Kết quả là cứ 5 trẻ thì 1 em bị trầm cảm. Về mặt tâm lý, trầm cảm bắt
nguồn từ sự tấn công bên ngoài khiến trẻ luôn tự ti, thậm chí ghét bỏ bản thân.
Cảm xúc và sự tức giận bị kìm nén này lại không được bộc lộ ra ngoài, trẻ tự chịu
đựng, cô đơn trong chính nơi được gọi là mái ấm.
Theo nhà báo, chuyên gia tâm
lý giáo dục Trần Thu Hà trên trang FB đã dẫn trên, sau kết luận của nhà chức trách
về cái chết tự vẫn của em N. thì qua báo chí rất nhiều người đã lên tiếng, một
số ít cảm thông với em nhưng đa số đều có vẻ như trách móc em. Chẳng hạn, “Còn trẻ mà em!”, “Còn cha mẹ già ai lo hả em?”, “Tự
tử là Em bất hiếu với cha mẹ!”, “Dại
dột để rồi đau khổ cho người thân của mình! Bao nhiêu công lao của cha mẹ, thầy
cô”, “Em học lực giỏi, nhưng có một
môn học mà em thiếu, đó chính là kỹ năng sống lạc quan! Tiếc cho gia đình và xã
hội”, “Không được làm thế. Làm sao có
thể sống tốt cuộc đời khác khi không thể sống tốt cuộc đời này. Đau đớn không
thể trốn chạy, chỉ có đối mặt và vượt qua thì mới thoát khỏi nó vĩnh viễn”,
“Ích kỷ, để lại nỗi đau khôn nguôi cho
người ở lại” vv.
Cuối bài viết, nhà báo Trần
Thu Hà đã nhận định: Nhiều người nhấn mạnh vào lý do em N. nhà nghèo, trong túi
em chỉ có 1,4 triệu đồng. Nhưng thật ra thì đau khổ luôn là một bí mật, không
tuân theo đạo đức và lý trí của người khỏe mạnh. Chẳng ai nói với một người
đang gẫy chân rằng: “Phải cố gắng lên chứ, đi dễ mà, ai chả đi được!”. Chả ai
nói với người viêm phổi rằng: “Chỉ cần thở thôi mà, sao ko thở đi?!”. Và rất
nhiều người cho rằng “Có gì đâu mà buồn? Tôi ngày xưa còn nghèo/khổ hơn em, sao
em ko làm được?...” Cứ như thể phải có đủ thẩm quyền để đau đớn, mới được đau đớn
vậy.
Nhà báo này viết tiếp: Mình chứng
kiến nhiều người trầm cảm là người rất nỗ lực, rất trách nhiệm, đầy nhiệt huyết,
sống nhiệt tình, là người thành đạt, thành công. Do đó những giáo điều về sống tích
cực, vượt qua khó khăn, thay đổi tư duy...có khi còn là giết họ không cần dao,
họ càng đay nghiến chính mình. “Những người tự tử chắc gì đã muốn chết? Họ chỉ
muốn chấm dứt nỗi đau đớn mà thôi” (Tiffanie De Bartolo). Những người tự tử
không phải là những người chạy trốn, mà là những người không còn có thể chạy trốn.
Tự sát không có mục đích đạt được cái chết, nó là một liều thuốc cho những thống
khổ tinh thần vượt ngưỡng. “Không ai vứt đi một cuộc đời còn đáng được giữ lại”
(David Humes).
Cuối cùng nhà báo này kết luận:
Hãy công bằng với trầm cảm! Và hãy cảnh
giác với nguy cơ trầm cảm của con cái, người thân và của chính bản thân mình,
các bạn ạ!
2.- Vấn nạn nêu ra từ phía học đường
Tin về cái chết tự tử của em
N. đã khiến sửng sốt, bàng hoàng chẳng những cho các bậc cha mẹ trong gia đình,
các nhà tâm lý giáo dục, mà còn cho cả những phụ huynh đang có con em đi học.
Chúng ta biết rằng, bệnh trầm cảm gây nên 2/3 cái chết tự vẫn và 90% người trầm
cảm không được điều trị. Điều này cho thấy mọi nơi, mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm
đều có người bị trầm cảm.
Thầy giáo Võ Anh Triết
(TPCHM) trên trang FB cá nhân mình đã bày tỏ ý kiến và cảm xúc xung quanh cái
chết của em N. như sau:
Khi chuyện thằng bé mất tích
xuất hiện, tôi cảm thấy có chút gì đó ngờ ngợ. Rồi chiều nay đọc tin về cuộc họp
báo của công an. Thằng bé đã tự kết thúc cuộc đời của nó, ở một nơi thật xa gia
đình, dưới dòng nước lạnh lẽo, chiếc balo với tảng bê tông 10kg. Nó đã chuẩn bị
kỹ, và nó đã không cho nó một cơ hội nghĩ lại. Thằng bé 19 tuổi, vào Sài Gòn học
đại học. Lẽ ra nó đã vào Sài Gòn từ tháng Chín năm ngoái, chứ không phải bây giờ.
Dịch bệnh đã làm thay đổi mọi thứ, kể cả số phận con người. Nếu nó hồ hởi đi hồi
tháng Chín, có thể nó đã khác, biết đâu!
Thằng bé hẳn là mang nặng nề
trầm cảm trong lòng. Nó đã không đi theo cuộc hẹn với người thân mà rẽ theo hướng
khác. Nó thuê nhà trọ để ngủ, rồi trả phòng trọ. Rồi nó lại thuê phòng trọ trở
lại, hẳn là lúc đó trong nó loé lên mong muốn tiếp tục sống. Nhưng mong muốn đó
không đủ lớn để giữ nó lại. Lúc 03g55 phút sáng, nó ra bờ sông Sài Gòn, hẳn là
nó đã thức trắng đêm để chống lại với chính bản thân nó. Quê nhà miền Trung của
nó, nghèo, với ba mẹ làm nông. Mà ba mẹ làm nông thì chỉ biết bán mặt cho đất
bán lưng cho trời để nuôi con cái đủ ăn, họ nào biết gì hơn điều đó. Họ không đủ
kiến thức để nhận ra những nỗi niềm con mình đang trải qua, thì làm sao họ biết
sẻ chia, thì làm sao họ biết vực con mình dậy. Họ chắc chắn không hiểu tại sao
con họ đau khổ như thế, và điều duy nhất họ làm là sững sờ nhìn quan tài con
mình trở về nhà, họ cứ nghĩ con họ đi để hiển vinh trở về.
Cuộc sống hiện đại ào ạt lắm,
dữ dội lắm. Một đứa trẻ lớn lên như thằng bé nhận được gì từ cuộc đời. Ở trường
nó cắm đầu học chữ, nó là đứa học giỏi, giỏi nó mới đậu đại học. Trường học làm quá ít những công việc nhằm
nâng đỡ tinh thần trẻ con, phần lớn sa vào thành tích học tập. Ở nhà, đứa
trẻ không biết nói chuyện với ai, cha mẹ ai nấy đều bận làm công việc đồng áng,
thời gian đâu để gần gũi con mình. Một đứa trẻ với tâm thần vững vàng sẽ vượt
qua thử thách, một đứa trẻ cô đơn và mong manh thì gục ngã dễ dàng.
Vậy là thằng bé đã chọn dừng
lại trên chặng đường đời vừa mở ra của nó. Không ai biết nó đã nghĩ gì vào những
khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời nó. Hẳn là nó đau khổ lắm. Nhưng nó không biết
cha mẹ ông bà của nó còn đau khổ hơn nó ngàn lần.
Vì họ còn sống để khổ đau
Vì nó không còn sống nữa để
biết họ sẽ khổ đau
Vì nó sẽ không còn khổ đau nữa
Nếu một ngày nào đó các con
đau khổ quá, các con nhớ phải tìm ai đó để chia sẻ, các con nhớ hãy tìm đến những
bệnh viện ung thư, các con nhớ hãy đến thăm những đứa trẻ tàn tật. Trở về rồi,
các con sẽ thấy nỗi đau của mình nhẹ bớt, lẽ sống của mình lớn lên…Quả thực, đến
lúc này ta phải nhận rằng Trường học làm
quá ít những công việc nhằm nâng đỡ tinh thần trẻ con, phần lớn sa vào thành
tích học tập.
Còn về phía Giáo hội Công giáo
thì sao? Chúng ta sẽ bàn tiếp sau đây vấn nạn liên quan đến tiếng nói và trách nhiệm
của Giáo hội đối với các bạn trẻ như em N.
3.- Vấn nạn nêu ra từ phía Giáo hội
LM Trần Cao Thăng (Cha xứ Tân
Hương TGP Saigon) trên trang FB cá nhân mình, đã chia sẻ mấy dòng sau:
Mấy hôm nay nghe tin một sinh viên 19 tuổi tự tử vì nghèo hay vì nguyên
nhân sâu xa nào đó và bị công chúng lên án là dại, là vô ơn, là bất hiếu vv...Tại
sao em này không cố gắng vượt qua, tại sao không nghĩ đến cha mẹ lo lắng đến tuổi
này... Nhưng con người gồm nhân và linh kết tinh, nếu chỉ chăm bẵm cho thân xác
lớn khôn mà thiếu chăm sóc phần linh thì hậu quả khó lường do mất cân bằng của
một con người dần trưởng thành.
Em sinh viên tự tử không gì ngoài thiếu cái
chính là đức tin. Nhiều người tự cho mình có khả năng xoay sở
mà không cần đến tâm linh. Tâm linh chính là linh hồn, là tinh thần mà không ai tự tìm được,
mà chỉ có nơi giáo dục đức tin qua tôn giáo như cách giáo dục nhân bản, văn minh
cho trẻ con mà chúng không thể tự phát triển, cụ thể là môi trường nhà thờ và các
giờ học giáo lý và các bài giảng trong thánh lễ. Nên người siêng năng đi lễ là
người được khoa học cho là sống lâu bởi lẽ họ có nền tảng cho tâm hồn vững vàng
trước những thất bại và khốn khó nhất. Cha mẹ hôm nay bỏ quên hoặc đặt nhẹ nền
móng đức tin này nên con cái dễ mất phương hướng dẫn đến tiêu cực phát bệnh trầm
cảm như hiện nay.
Chúng ta biết rằng, gia đình em N. này không phải là Công giáo nên đặt vấn
đề đức tin đối với em thì quả là không thích hợp. Tuy nhiên, từ cái cái chết này
của một thanh niên, Ki-tô hữu chúng ta sẽ liên tưởng tới những con em “có đức
tin” của chúng ta, đang sống như thế nào? Và nếu rơi vào tình cảnh như em N. thì
con em chúng ta sẽ phản ứng ra sao?
Dựa vào thực tế của các gia đình
Công giáo, chúng ta phải nhìn nhận đời sống đức tin của giới trẻ Ki-tô hữu ngày
nay đang có dấu hiệu phần sa sút. Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình MF, trong bài viết
tựa “Đức tin của giới trẻ trong đời sống
hôm nay?” đã đề cập đến mảng tối đời sống đức tin của một số bạn trẻ Công
giáo như sau: Một số bạn trẻ ngày nay làm cho chúng ta không khỏi thất vọng và
lo lắng cho thế hệ tương lai…Các nhà lãnh đạo tôn giáo rất lo ngại trước vấn đề
đạo đức của giới trẻ bị sa sút!
Tại một số xứ đạo, các bạn
trẻ đi lễ đang giảm dần một cách trầm trọng, nhiều bạn trẻ ngày nay coi việc đi
lễ là một gánh nặng. Đi vì bổn phận, hoặc vì gượng ép. Họ đến nhà thờ là do cha
mẹ thúc giục, không đi không được, hoặc vì không đi sợ mắc tội chứ không vì niềm
tin và lòng mến. Họ có mặt ở nhà thờ nhưng không hề ý thức mình đang có mặt ở
đó để làm gì, chỉ mong sao giờ lễ mau kết thúc. Một số bạn đi tham dự Thánh lễ,
cha xứ hỏi bài Tin Mừng mới đọc xong Chúa Giêsu nói gì? Họ không sao trả lời được.
Bởi vì, họ không chú ý lắng nghe, ngồi trong nhà thờ nhưng tâm trí lại nghĩ đến
những việc bên ngoài.
Thậm chí, một số khác còn đi
lễ “ôm”, một cách gọi hơi lạ nhưng nói lên được thực trạng hiện nay của một số
bạn trẻ. Họ đứng ngoài đường dự lễ và từng cặp ngồi trên xe gắn máy thân mật
quá trớn nơi công cộng, đùa giỡn, chuyện trò, chơi game trên điện thoại di động…
chẳng quan tâm Thánh lễ đang đến đâu và chủ tế đang làm gì, chỉ biết có người
ra về là họ nổ máy chạy thẳng…
Và vẫn còn những điều đáng buồn
khác, nhiều bạn trẻ ngày nay sống đức tin rất hời hợt. Có dịp tiếp xúc với các
bạn trẻ đang học lớp giáo lý hôn nhân, tôi thật ngỡ ngàng về một số đông không
biết gì về giáo lý căn bản, ngay cả những kinh đọc hằng ngày họ cũng không thuộc.
Họ mang danh nghĩa là đạo gốc nhưng dường như họ theo đạo chủ yếu làm cho cha mẹ
vui lòng, không ý thức mình là người Kitô hữu. Một bạn trẻ nói: “Những việc như
đi nhà thờ, đọc kinh và cầu nguyện chỉ là do thói quen, cũng như do áp lực của
những người thân”.
Như vậy, hơn bao giờ hết,
ngày nay, đức tin của giới trẻ chúng ta đang xuống dốc trầm trọng. Ở một vài
giáo xứ, số lượng người trẻ đi học giáo lý ngày càng ít đi. Và người ta không
còn thấy bóng dáng bạn trẻ đi tham dự Thánh lễ hằng tuần. Và nếu có đi, thì ghế
ngồi của họ là “xe ôm”, hoặc tụ tập thành nhóm đứng ngoài lề trò chuyện, hút
thuốc cho qua giờ lễ… Một người mẹ chia sẻ: “Mỗi lần tôi nhắc nhở đứa con trai
đi tham dự Thánh lễ, nó trả lời rằng: “Thời đại này, đến nhà thờ làm gì hả mẹ?
Chỉ cần mình tin có Chúa là đủ. Mẹ thử nghĩ xem, mấy đứa bạn con có đi lễ đâu
mà nhà nó vẫn giàu có đấy thôi”.
Sự sa sút trong đời sống đức
tin của các bạn trẻ hiện nay đã nhắc nhở chúng ta đến trách nhiệm của gia đình,
của giáo xứ, của hàng giáo sĩ, của cả Hội thánh trong việc dạy dỗ, bồi dưỡng đức
tin cho các thành phần Dân Chúa, đặc biệt là giới trẻ. Nếu chúng ta bỏ lơ việc
quan trọng này, thì giả sử một em nào đó rơi vào tâm trạng, tình cảnh như em N.
thì liệu có “đứng vững” được không?
Nhân đây, xin nhắc lại trong Thư Mục vụ năm Đức Tin 2012, Hội
đồng Giám mục Việt Nam cũng đã lên tiếng nhấn mạnh như sau:
Tại Việt Nam, phần đông các
tín hữu vẫn trung thành dự lễ Chúa nhật, kể cả ngày thường. Đa số các gia đình
công giáo vẫn là cái nôi nuôi dưỡng và thông truyền đức tin cho con cái. Tuy
nhiên, nơi một số người, việc giữ đạo chỉ theo tập tục và thói quen,
chưa trở thành xác tín cá nhân và động lực cho những chọn lựa quan trọng trong
đời sống. Nơi một số người khác, đời sống đức tin quá thiên về tình cảm, chỉ giới
hạn vào một số thực hành nghi lễ và luân lý. Ngoài ra, do ảnh hưởng của thời đại
đề cao lối sống vật chất và hưởng thụ, nhiều người trẻ công giáo ngày nay cảm
thấy bị lung lạc trong đời sống đức tin, nhiều đôi vợ chồng trẻ không còn ý thức
trách nhiệm thông truyền đức tin cho con cái (số 5)”.
Quả vậy, thực trạng giới trẻ ngày nay lơ là với đời sống tôn giáo, lung lạc
trong đời sống đức tin, không quan tâm tới việc sống đạo…là điều quá rõ ràng.
Và nếu chúng ta tìm hiểu kỹ hơn thì thấy rằng thực trạng ấy đã xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chính vẫn là sự khủng hoảng trầm trọng
về niềm tin tôn giáo của giới trẻ trong thời hiện đại và sự thiếu sót quá lớn trong
việc giáo dục đức tin cho giới trẻ.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
sự sa sút đức tin nơi các bạn trẻ Ki-tô hữu. Ở chúng ta sẽ bàn đến hai nguyên
nhân chính, đó là: Nguyên nhân từ gia đình và nguyên nhân từ giáo xứ. Về vấn đề
này, tác giả Vũ Văn Trình MF trong bài viết đã dẫn, chia sẻ như sau:
“Gia đình là Giáo hội tại gia, là trường học tự nhiên và căn bản trong nền
giáo dục Kitô giáo”. Thế mà nhiều gia đình trẻ ngày nay, việc cha mẹ dạy dỗ
con cái sống đức tin là điều hiếm có. Ngay cả việc đọc kinh sáng tối cũng chẳng
mấy ai giữ. Việc giáo dục đức tin cho con cái phó mặc cho nhà thờ, giáo xứ. Có
những cha mẹ vì quá nhiều việc nên không có thời gian nghĩ đến Chúa; thậm chí,
một số cha mẹ còn không muốn cho con đi học giáo lý mà bắt con đi học thêm hay ở
nhà học bài vì lý do bài vở quá nhiều. Cũng có một số cha mẹ cho con đi học
giáo lý nhưng không quan tâm con học ra sao, nhiều khi con nói đi học giáo lý
nhưng lại trốn đi chơi game, đi trơi với bạn bè…
“Gia đình là tế bào căn bản của xã hội và Giáo hội” đó là câu nói mà
nhiều người đã biết. Nhưng xem ra nhiều gia đình ngày nay không những không chú
trọng điều này mà còn chẳng quan tâm đến việc xây dựng nếp sống trong gia đình,
cha mẹ thiếu gương mẫu về đạo đức, về lối sống và không lo dạy bảo con cái biết
Chúa, dạy con cách làm dấu, đọc kinh; thậm chí, một số cha mẹ còn không thuộc
kinh. Theo thạc sĩ tâm lý nữ tu Hồ Thị Hạnh cho biết: “Một trong những nguyên
nhân dẫn đến giảm sút đức tin ở giới trẻ là do sự giáo dục của gia đình còn quá
lỏng lẻo, ít quan tâm tới các em”. Hơn nữa, nhiều gia đình không có thói quen
dành thời gian để đọc kinh hay cầu nguyện chung. Vì thế, con cái không ý thức
được tầm quan trọng của cầu nguyện cũng như việc đọc kinh chung.
Nguyên
nhân từ giáo xứ: Một số
giáo xứ chưa quan tâm việc giáo dục đức tin cho các bạn trẻ. Có những giáo xứ
chỉ có phòng học giáo lý sơ sài, không trang thiết bị học tập, cha xứ chưa quan
tâm đến giáo dục đức tin cho các bạn trẻ một cách đúng mức. Đồng thời, giáo xứ
không tạo điều kiện cho các bản trẻ có cơ hội tham gia vào các hoạt động trong
giáo xứ.
Kinh nghiệm cho thấy rất rõ
những thiệt thòi do việc giới trẻ không được huấn luyện đức tin một cách kỹ
càng trong giáo xứ vì thiếu vắng linh mục trong một thời gian dài. Giáo xứ chỉ
có thể tổ chức các lớp giáo lý, đủ “lẽ đạo” cho các em xưng tội và rước lễ lần
đầu. Vì thiếu giáo lý viên, việc dạy giáo lý cho trẻ em được phó thác cho những
ông trùm, bà trùm. Việc huấn luyện đức tin dừng lại sau khi các em đã xưng tội
và rước lễ lần đầu. Đối với bạn trẻ nhập ngũ hoặc thoát ly gia đình, vốn kiến
thức ít ỏi về giáo lý sẽ bị mai một rất nhanh. Đó là lý do tại sao nhiều bạn trẻ
bỏ đạo sau một thời gian ngắn rời khỏi giáo xứ.
Mặt khác, giới trẻ không chỉ
chú trọng về kiến thức xã hội, mà còn cưu mang những ưu tư, thao thức xây dựng
giáo xứ, Giáo hội theo cách trẻ trung và ao ước dấn thân thực hiện sứ vụ tông đồ
của mình. Tuy nhiên, lòng can đảm lãnh nhận trách nhiệm này, không được các vị
chủ chăn, các bậc làm cha mẹ lắng nghe và đón nhận. Xin trích dẫn thư của một bạn
trẻ như sau: “Quý Cha muốn nghe người trẻ,
nhưng lại chẳng hề tạo cho người trẻ một cơ hội để nói. Quý Cha đối với người
trẻ, xa lạ và uy quyền lắm. Quý Cha muốn chúng con cộng tác, nhưng lại ngại tuổi
tác và kinh nghiệm non trẻ của chúng con. Con thiết nghĩ rằng, không thử một lần,
không té ngã, sẽ chẳng bao giờ có kinh nghiệm, và rồi người trẻ mãi mãi vẫn chỉ
đứng ngoài lề mà thôi.” Hơn nữa, một số cha xứ không có sự đồng cảm với giới
trẻ, chỉ biết dùng uy quyền của mình để nói, thì chính nơi tòa giảng, vị trí
cao trọng của các vị linh mục, đã làm cho người trẻ cảm thấy các ngài thiếu gần
gũi, còn bản thân người trẻ bị lạc lõng ngay trong nhà của cha mình.
Thư
Mục Vụ năm Đức Tin 2012 của HĐGMVN đã nêu rõ: Cách riêng, chúng tôi muốn ngỏ lời với các linh mục, tu sĩ,
và các bậc cha mẹ trong gia đình Công giáo. Giáo dục đức tin là trách
nhiệm gắn liền với thừa tác vụ linh mục đến nỗi “các linh mục mắc nợ
với mọi người về việc thông truyền cho họ chân lý Phúc Âm mà các ngài đã nhận
được từ nơi Chúa”. Do đó, trong sự hiệp thông với giám mục và linh mục đoàn
giáo phận, anh em linh mục hãy dành thời giờ, năng lực và nhiệt tâm cho công việc
hết sức quan trọng và cần thiết này, đặc biệt trong việc giảng Lời Chúa và dạy
giáo lý cho thiếu nhi và giới trẻ.
Anh em cần quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo đội ngũ giáo lý viên, những người trực tiếp cộng tác với
chúng ta trong việc thông truyền đức tin cho thế hệ trẻ” (số 9).
Như vậy chúng ta thấy rằng,
trách nhiệm chủ yếu trong việc giáo dục đức tin cho giới trẻ vẫn thuộc về các
linh mục, đặc biệt là các linh mục trực tiếp phục vụ tại giáo xứ. Để chu toàn nhiệm
vụ này, các ngài phải dành nhiều thời gian, công sức kể cả tài chánh để đầu tư
vào công việc khẩn thiết và quan trọng này ./.
Aug. Trần Cao Khải