Lời
Chúa hứa là chân thật và đã được minh chứng bằng cái chết đau thương của Ngài.
Thế nhưng để có thể nhận được lời hứa ấy,
chúng ta phải làm gì nhất là trong những ngày mà đức tin của người Công Giáo hầu như đã bị lung lay bởi sự đánh phá của
các thế lực sự dữ đến cả từ bên trong lẫn bên
ngoài Giáo Hội ?
Đức
tin phải được thử thách, có vượt qua thử thách đó mới là đức tin chân thật. Trong
những ngày…giãn cách xã hội, nhà thờ bị đóng cửa, các hội đoàn không còn sinh hoạt, đời sống tôn giáo dường
như bế tắc. Thế nhưng chính trong hoàn cảnh bất lợi đó, mỗi người
chúng ta cần nên xem xét lại việc sống đạo
xưa nay của mình có xứng đáng là
người Con Chúa hay không ?: “ Vậy đây là điều tôi nói và làm chứng trong
Chúa rằng, anh em chớ có ăn ở như người đời theo sự hư không của tâm trí họ.
Lòng của họ tối tăm, xa cách sự sống của Thiên Chúa bởi sự ngu muội do lòng cứng
cỏi của họ. Họ đã lì lợm, tự gieo mình vào sự luông tuồng, ham thích mọi điều ô
uế không hề chán. Nhưng anh em đã học
nơi Đức Ki Tô thì chẳng như vậy đâu nếu quả anh em đã nghe Ngài. Vậy anh em phải lột bỏ con người
cũ về cách ăn ở trước kia là người càng ngày càng bị bại hoại
bởi tư dục lừa dối. lại phải đổi mới trong tâm trí mình mà mặc lấy con
người mới là người đã được dựng nên y theo Hình Ảnh Thiên Chúa trong sự công
chính và sự thanh khiết của sự thật” ( Ep 4, 17, 24 ).
Có
câu nói đại ý: Chẳng vị Thánh nào lại không có một quá khứ cũng chẳng tội nhân nào lại không có tương lai”. Thật vậy,
chính Thánh Phao Lô đã cho chúng ta một tấm gương sáng chói về sự thật đó. Phao
Lô khi còn mang tên Sao Lơ là người đã
tàn hại và bắt bớ Đạo Thánh Chúa cách dữ dội nhưng cũng chính con người
này lại đã trở nên một khí cụ đắc lực và là chứng nhân kiên cường của Chúa.
Trong biến cố Đa Mát, Chúa Giê Su Phục Sinh nói với Anania, người đã không muốn
đi đến để chữa mắt cho Phao Lô và Chúa nói với ông: “ Hãy đi vì người là khí
mạnh lựa chọn của Ta để đem Danh
Ta ra trước mặt dân ngoại, các vua chúa và con cái itsraen. Ta cũng đã tỏ cho
người biết cần phải chịu bao nhiêu nỗi khổ vì Danh Ta” ( Cv 9, 15 -16 ).
Tại
sao Phao Lô từ một con người…bắt đạo lại
đã trở thành chứng nhân kiên cường như thế ? Đó là vì đã có sự thay đổi cách nhìn hoàn toàn khác về Chúa Giê Su: “ Lại Người Ấy đã chết vì mọi người, hầu cho những
kẻ còn sống không còn vì chính mình mà sống nữa nhưng sống vì Đấng
đã thay họ chịu chết và sống lại…
…Bởi
đó cho nên , từ nay chúng tôi không còn nhận
biết ai theo xác thịt nữa. Dẫu chúng tôi
từng nhận biết Chúa Ki Tô theo
xác thịt. Song hiện nay chẳng còn nhận biết Ngài cách ấy nữa. Vậy nếu ai ở trong Chúa Ki Tô thì nấy được dựng
nên mới, những sự cũ đã qua đi, này mọi sự đều trở nên mới” ( 2C 5, 15 -17 ).
Tất
cả sẽ thay đổi theo cách nhìn. Trước biến
cố Đa
Mát, Sao Lơ coi Chúa Giê Su và những
kẻ theo Ngài chỉ là nhóm người nổi loạn cần trừ khử nhưng sau khi
được Chúa mở con mắt trí tuệ thì đã trở thành chứng nhân kiên cường của thập
giá: “ Vì tôi quyết định rằng ở giữa anh
em , tôi chẳng biết sự gì khác ngoài Giê Su
chịu đóng đinh trên thập tự giá” ( 1C 2, 2 ).
Cũng
vì cái nhìn theo con mắt xác thịt đó,
người Do Thái đã chối bỏ Đấng Messia mà
cha ông họ từ lâu mong mỏi, đợi chờ: “
Người ta xầm xì về Ngài bởi Ngài đã phán, Ta là bánh từ trời xuống. Họ nói rằng
đó chẳng phải là Giê Su, con của Giosep mà cha mẹ Người chúng ta đều biết đấy ư
? ( Ga 6, 41 ).
Không
chỉ người đời mới có cái nhìn sai lạc về Chúa Giê Su mà ngay cả các Tông Đồ, những
người thân tín nhất của Ngài cũng vậy. Phê Rô, sau khi được khen ngợi nhưng rồi ngay sau đó lại bị Chúa quở trách
vì đã can ngăn Chúa bước vào con đường thương khó: “ Ớ Sa Tan, hãy lui ra đằng
sau Ta…Ngươi làm cớ vấp phạm cho Ta. Vì
tâm ý ngươi chẳng chăm về việc Thiên Chúa
song chăm về việc loài người” ( Mt 16, 23 ).
Thánh
Phê Rô bị quở trách với lý do là vì chỉ…chăm việc loài người mà không…chăm việc Thiên Chúa. Việc của Thiên Chúa đây chính là tìm kiếm Sự Sống Đời Đời và để việc tìm kiếm ấy mang lại kết quả thì nhất thiết cần phải tin vào Chúa Giê Su
Ki Tô.
Sau
phép lạ hóa bánh ra nhiều, người Do Thái kéo đến tìm Chúa nhưng Ngài nói: “ Quả
thật các ngươi tìm Ta chẳng phải vì đã
thấy những dấu lạ bèn vì đã được ăn bánh no nê. Chớ làm việc vì đồ
ăn hay hư mất nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời là thứ Con Người
sẽ ban cho các ngươi vì ấy là Người mà Cha tức là Thiên Chúa đã ấn chứng cho.
Chúng bèn hỏi rằng: Chúng tôi phải
làm chi để làm công việc của Thiên Chúa
? Đức Giê Su đáp: Công việc của Thiên Chúa ấy là các ngươi hãy tin Đấng Ngài đã sai đến” ( Ga 6, 26 -29 ).
Như
đã biết, để có thể tin vào Chúa Giê Su là điều rất khó bởi cần phải thay đổi
cái nhìn về Ngài. Bao lâu chưa thay đổi cái nhìn về Chúa Giê Su thì sẽ không thể tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế
và như thế cũng sẽ không thể tin vào Tin
Mừng Nước Trời mầu nhiệm mà Ngài rao giảng: “ Thời đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần,
các ngươi hãy ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ).
Giữa
việc sám hối, ăn năn và tin vào Tin Mừng
có một sự liên kết sâu xa. Càng có lòng ăn năn, sám hối tội mình bao
nhiêu thì lòng tin vào Tin Mừng càng triển nở mạnh mẽ
bấy nhiêu. Trái lại không sám hối tức không nhận biết tội mình thì không
thể…tin vào Tin Mừng. Tại sao ? Bởi vì Nước Trời đây chính là một Thực Tại Tâm và Thực Tại Tâm ấy ví như mặt trời bị che khuất
bởi những đám mây mù. Tội lỗi giống
như mây mù che khuất, chỉ cần sạch tội thì mặt trời
Chân Tâm sẽ hiện ra rực rỡ như vẫn
là vậy.
Chân Tâm
tức Nước Trời mầu nhiệm bị che khuất bởi hai
trở lực: Một là những đam mê dục vọng,
hai là những kiến thức sai lầm. Con người sống là sống với, sống bằng thân xác, vì thế nó
không thể không có những nhu cầu như ăn uống, dâm dục để tồn tại. Tuy nhiên
ngoài cái bản năng sinh tồn ấy ra, con
người vì là loài có linh tánh thế nên nó
còn có khát vọng muốn vượt thoát khỏi
cái thân phận…hay chết ấy để bước vào
cõi vô hạn.
Có
thể nói chính cái khát vọng ấy đã làm
nên con người như Hình Ảnh Thiên Chúa. Thế nhưng giữa khát vọng
giải thoát và hiện thực đời sống ( Giác quan ) có một khoảng ngăn cách khó thể
vượt qua nếu không dựa vào đức tin tôn
giáo hay nói chính xác hơn là cậy nhờ vào Chúa Giê Su Ki Tô.
Chúa
Giê Su là Đấng Cứu Độ duy nhất, chúng ta
tuyên xưng điều ấy nhưng cần hiểu tính chất Cứu Độ đó thế nào ? Có phải Chúa đến để …cứu tất cả hay không ? Nếu
bảo rằng Chúa…cứu tất cả thì cần gì phải tin vào Tin Mừng cùng với lòng ăn năn,
sám hối ? Thật sự như Chúa nói, Ngài
không cứu tức đem đến giải thoát cho con người mà là Sự Thật: “ Chúa Giê Su bèn phán cùng những kẻ đã tin
Ngài rằng: Nếu các ngươi cứ ở trong đạo
của Ta thì thật là môn đệ Ta, các ngươi
sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ngươi” ( Ga 8, 31 -32 ).
Lời
Chúa thật hết sức rõ ràng, không phải
Chúa…cứu nhưng là Sự Thật. Điều này cho thấy chỉ khi nào nhận ra Sự Thật, con
người mới được giải thoát và sự thật đó chính là mỗi người đều được tạo dựng nên
là Hình Ảnh Thiên Chúa là Con Thiên Chúa. Để giúp con người nhận biết sự thật
Con Thiên Chúa ấy, Đức Ki Tô đã rao giảng
Tin Mừng Nước Trời như một....Quốc Độ, một nơi chốn để cho ta
có thể dễ dàng quy hướng.
Đức
Ki Tô rao giảng Tin Mừng Nước Trời và Ngài khẳng định đó là sứ mạng được sai
đi: “ Vừa rạng ngày Ngài đến nơi thanh vắng. Có quần chúng theo kịp, muốn
giữ Ngài lại, không cho đi khỏi họ. Nhưng Ngài nói: Ta cần phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên
Chúa cho các thành thị khác, vì cốt tại việc đó mà Ta được sai đến” ( Lc 4, 42
-43).
Chúa Giê Su đã khẳng định sứ mạng thiên sai của
Ngài đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Thế nhưng thần học
lại đã ngang nhiên phủ nhận để đưa ra một thứ…Nước Trời hoàn toàn mang màu sắc
chính trị: “ Vậy Nước Thiên Chúa mà Đức
Giê Su rao giảng không phải là một thực thể ở trên trời nhưng là một tình trạng
tương lai ở thế gian khi người nghèo hết nghèo, người bị áp bức không còn bị áp
bức. Nó được biểu thị bằng một ngôi nhà hay một đô thị có tường thành bao
quanh” ( Lm Micae Trần Đình Quảng – Đức Giê Su trước khi có Ki Tô Giáo – Một nỗ
lực hiện đại trở về với Đức Giê Su Lịch Sử ).
Đưa
ra một thứ Nước Trời…mang màu sắc chính trị như thế, thần học đã phạm phải một
sai lầm nghiêm trọng, nguyên do là vì đã
muốn trình bày một Đức Giê Su Lịch Sử có
nghĩa chỉ …nhìn Ngài bằng con mắt xác thịt.
Thần
học dù là Duy Lý hay Hiện Sinh, chung quy cũng chỉ là những kiến thức lầm lạc, không bao giờ có thể nhận biết
Thực Tại. Điều này cho thấy…dục vọng tuy cũng là trở
lực lớn lao trên con đường giải thoát
nhưng xét ra lại
không nguy hại bằng việc chấp vào những kiến thức do học hỏi,
nghiên cứu mà có !!!
Người
đời xem ra rất coi trọng kiến thức cho đó là biểu lộ sự khôn ngoan loài người, nhưng đối với Thiên Chúa đó lại là sự ngu dại: “ Vì sự khôn
ngoan của thế gian này đối với Thiên
Chúa là sự ngu dại như có chép rằng:
Ngài khiến kẻ khôn ngoan mắc quỷ kế của họ. Lại rằng Chúa biết ý tưởng của người khôn
ngoan đều là hư không” ( 1C 3, 19 -20 ).
Tại
sao khôn ngoan thế gian đối với Thiên Chúa chỉ là ngu dại ? Bởi vì sự khôn
ngoan ấy sở dĩ có được tất cả là do nơi
phân biệt và nếu đã do phân biệt thì đều là giả dối, không thật. Khi ta nói…cái
nhà thì cái nhà đó thật sự chỉ là…giả
danh do phân biệt với những cái gọi là núi, sông, xe cộ, người ngợm v.v… Cứ chấp
cho những cái giả danh, cho nó là thật,
để rồi mong muốn, tham cầu, hơn thua, tranh chấp với nhau, đó chẳng phải là ngu
dại sao ?
Đối
với các sự vật đã vậy, còn đối với triết học, thần học cũng vậy, đó chỉ là những
quan niệm do lý trí phân biệt mà có. Bỏ
đi những phân biệt, đối đãi thì các quan niệm
cũng chẳng thể còn…
Quan
niệm hẳn nhiên không phải là Thực Tại. Thế nhưng người đời kể cả các triết gia, thần học gia
chỉ vì tính chấp nên đã lầm quan niệm với
Thực Tại. Quan niệm về Thiên Chúa lại lầm
cho đó chính là Thực Tại Thiên Chúa và vì thế không sao tránh khỏi cái nạn Tục
Hóa Tôn Giáo ( Desacralisation ).
Dù rằng
thời nay là thời Tục Hóa nguy hại cho đức tin như thế nhưng chúng ta, những môn
đệ Chúa không những không được nản lòng
thối chí, trái lại cần tích cực hơn trong
việc sống đạo.
Để sống
đạo cách tích cực thì trước hết, cần như Thánh Phao Lô, thay đổi cái nhìn về
Chúa Giê Su. Nếu trước đây chỉ tôn thờ
Chúa bằng những hình thức bề ngoài như
đọc kinh, cầu nguyện, xưng tội, rước lễ, chầu Thánh Thể v.v… thì nay
chúng ta cần nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu
Độ duy nhất của đời mình. Tại sao ? Bởi
vì có nhìn nhận Chúa Giê Su là Đấng Cứu
Độ duy nhất thì mình mới hết lòng
vâng nghe và thực thi Lời Ngài: “ Sao các ngươi gọi Ta
là Thầy, là Chúa mà không làm theo lời
Ta dạy bảo ?Ta sẽ chỉ cho các ngươi biết
kẻ nào đến cùng ta, nghe lời Ta và làm theo thì giống ai ? Kẻ
ấy ví như người kia cất nhà, đào sâu, lập nền trên vầng đá, khi nước lụt tràn
ngập, ngọn nước đổ ập vào nhà đó thì
không rúng động được vì đã được xây cất chắc chắn” ( Lc 6, 46 -48 ).
Đã gọi
là sống đạo thì phải thực hành, không thực hành thì không thể là…sống đạo. Mặt khác toàn bộ việc sống đạo
ấy cần xuất phát từ ở nơi Tâm tức nơi tư
tưởng. Cầu nguyện mà chỉ có ở ngoài môi
miệng thì việc ấy chẳng thể có ơn ích: “
Còn ngươi khi cầu nguyện, hãy vào phòng kín đóng cửa lại rồi cầu nguyện Cha
ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo
đáp cho” ( Mt 6, 6 ).
Cầu
nguyện chính là sự thể hiện của đức tin.
Tin sao thì cầu vậy ( lex orandi, lex
credendi ). Đức cố hồng y FX Nguyễn Văn Thuận nói Giáo Hội khủng hoảng là vì đã …hạ giá cầu nguyện. Hạ giá không có nghĩa là không cầu
nguyện nhưng là đã không nhận ra sự thiết
yếu của cầu nguyện.
Tại
sao cầu nguyện lại là điều thiết yếu ? Bởi vì trong cầu nguyện luôn hàm chứa
hai yếu tố. Một là Cầu, hai là Nguyện. Cầu là cầu xin cho mình ơn này ơn khác. Còn
Nguyện là nguyện làm sáng Danh Chúa để
được về sống đời đời bên Ngài.
Sự
lo lắng trong cơn dịch bệnh là điều
không ai tránh khỏi nhưng sự lo lắng ấy chỉ đưa đến bất lực nếu người ta
chỉ biết bám víu vào cõi đời giả trá, khốn khổ này. Trái lại, nếu có
lòng tin và dốc tâm nguyện về cõi Thiên
Đàng hằng vui, hằng sống thì đâu còn lo
chi nữa ? Kinh Mân Côi chính
là giải pháp tối ưu, chỉ cần hết lòng cậy
trông ở Mẹ thì thể nào cũng đến
được với Đấng Cứu Độ Giê Su ( Par Mariam Ad Giê Sum )./.
Phùng Văn
Hóa