Tính hiệp hành (synodality) đang càng ngày càng xuất hiện nhiều trong đời sống Giáo Hội. Nó được nhắc tới nhiều từ các Thượng Hội Đồng Giám Mục gần đây về gia đình và về giới trẻ. Nó cũng được nhắc đi nhắc lại trong Công Nghị ở Đức gần đây như một khẩu hiệu mang tính chiến lược.
Các Giám mục và Linh mục tham dự thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục dành cho người trẻ. tại Vatican. 03/10/2018. (Credit: Paul Haring/CNS.)
Và không phải vô lý khi Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới mà Đức
Phanxicô triệu tập năm 2023 lại có chủ đề là Tính hiệp hành. Và khi phải đối diện với vô vàn những chất vấn về những vấn nạn
gai góc trong đời sống Giáo Hội và nhân sinh hiện tại, biết đâu tính hiệp hành
này lại không là một dấu chỉ của thời đại theo cách nói của công đồng Vatican
II, một gợi ý (hint) của Thánh Linh Thiên Chúa và qua đó, Thiên Chúa tiếp tục
dẫn dắt Giáo Hội?
Synod-Synodality?
Về mặt từ nguyên, chúng ta thấy chữ synodality/ synodalité/
synodalità (danh từ) mà chúng ta gọi là tính hiệp hành khởi nguyên từ một từ
ghép tiếng Hy Lạp σύνοδος-Sunodos (synod / synode/ sinodo) mà chúng ta dùng để
gọi các công nghị/ thượng hội đồng của các giám mục để bàn về những vấn đề
trong Giáo Hội. Từ này phát khởi bao gồm một giới từ συν (sun – với) và danh từ
όδός (odos – đường), với ý nghĩa là một con đường mà dân Chúa cùng đi. Đây
là một từ ngữ cổ xưa. Cũng vậy, từ đó cũng mặc nhiên gợi nhớ đến Chúa Giêsu,
Đấng đã tự tỏ mình là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6), và liên quan đến
các Kitô hữu, những kẻ theo Ngài, mà ngay từ thuở ban đầu, vẫn được gọi là
“người theo Đạo” (xem Cv 9,2; 19,9.23; 22,4; 24,14.22). Khi dịch qua tiếng Việt, chữ synod và synodality này được dịch
ra nhiều hạn từ khác nhau. Chữ synod được dịch ra thành Thượng Hội Đồng Giám
Mục hay công nghị, (nghĩa thế tục là hội đồng) và chữ synodality
được dịch ra thành tính hiệp hành (theo cách dịch của HĐGMVN),
hay những bản dịch đây đó trên các kênh thông tấn xã Công Giáo như Việt
Catholic là tính đồng nghị (cách dịch của tác giả Vũ Văn An
hay Đặng Tự Do), tính công nghị, tính liên hợp (bản
dịch Christus vivit của cha Lê Công Đức), tính nhất quán (bản dịch Christus vivit của Ủy ban Mục vụ Giới trẻ và Thiếu nhi - trực thuộc
Hội đồng Giám mục Việt Nam), và kể cả cách gọi tính hiệp/hợp đoàn nữa.
Mỗi chữ đều có những dị biệt về ý nghĩa, có những điểm mạnh điểm yếu trong cách
dịch. Vì chưa có một hàn lâm viện về ngôn ngữ nên
trong những thuật ngữ hàn lâm (academic term) này, tiếng Việt còn rất “phong
phú” đến mức “loạn lạc”! Chúng ta bỏ qua những dị biệt về vấn đề cách dịch và
ngôn ngữ để hiểu ý niệm này qua hạn từ tính hiệp hành trong
suốt bài viết này.
Tính hiệp hành trong lịch sử Giáo Hội:
Như đã nói, tính hiệp hành đã là một thuật ngữ cổ xưa trong lịch
sử Giáo Hội và đã từng được thực hành trong đời sống Giáo Hội. Thật vậy, tính
hiệp hành là một hiệu quả phát sinh từ ý nghĩa đích thực của cuộc “triệu tập
dân Chúa” (קָחַל/עֵדה - qahal /‘edah) qua ơn gọi của Abraham, được
củng cố với Giao ước Sinai với cuộc Đại Hội của Dân Chúa, từ đó tiên báo “đoàn
dân của Giao ước mới” là Giáo Hội (έκκλησία – Ecclesia là tiếng Hy Lạp được
dùng để dịch chữ קָחַל/עֵדה , tức qahal /‘edah tiếng Hipri). Hình ảnh
dân Do Thái cùng nhau bước đi trong sa mạc, rồi được cụ thể hóa qua việc Đức
Giêsu quy tụ các Tông Đồ và thành lập Giáo Hội, rồi Công Đồng đầu tiên của các
Tông Đồ tại Giêrusalem năm 43 đều là những nền tảng Thánh Kinh cho thấy tính
hiệp hành đã là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử cứu độ. Trong thời kì đầu của
Giáo Hội, các vị giám mục thường họp bàn với nhau những về những vấn đề tín lý,
luân lý và cách quản trị trong Giáo Hội qua các Công Đồng và với tư cách giám
mục đoàn. Chính vì thế mà cũng có sự giao thoa giữa ý niệm tính hiệp hành
(synodality) với tính hợp đoàn (collegiality) của các Giám mục, và tính công
đồng (conciliarity).
Tài liệu của Ủy Ban Thần Học Quốc Tế ghi nhận: “Công đồng
Nicea (325) quy định nơi điều 6 xác nhận tính ưu tiên và trổi vượt của các toà
Rôma, Alexandria và Antiokia. Toà Constantinople đã được thêm vào danh sách các
toà chính khi diễn ra Công đồng Constantinople I (381): Riêng khoản luật 3 đã
trao chức chủ tịch danh dự cho vị Giám mục Rôma, Công đồng Chalcedon (451) đã
xác nhận tước hiệu nầy, khi toà Giêrusalem được thêm vào danh sách. Ở phương
Đông, chế độ “ngũ toà” này được coi là mô hình bảo đảm việc thực thi mối dây
hiệp thông và tính hiệp hành giữa năm Toà Thượng phụ này. Trong khi phương Đông
công nhận vai trò của các Thượng phụ Giáo chủ (ngang nhau), thì Hội Thánh phương
Tây trao cho toà Rôma vị thế đặc biệt là trung tâm của Giáo hội hoàn vũ.” Sau thời kì bị bách hại, Giáo Hội được các Hoàng Đế Roma
ủng hộ và phát triển nhanh chóng. Các Công Đồng chung trong thiên niên kỉ đầu
tiên của lịch sử Giáo Hội đều tổ chức ở phương Đông, với sự hiện diện của các
Thượng Phụ, Tổng Giám Mục và Giám Mục, và được chính các Hoàng Đế triệu tập vì
danh xưng “nhà Bảo Hộ tối cao của Kitô giới” của mình. Vì ngăn trở về địa lý và ngôn ngữ, các vị Giáo Hoàng ít khi có
thể hiện diện trực tiếp trong các Công Đồng đầu tiên này. Các vị thường chỉ có
những đặc sứ như các vị đại diện. Tuy nhiên, các công nghị các Giám Mục ở Tây Phương thì do chính
các vị Giáo Hoàng triệu tập, và tính hiệp hành là một đặc nét rất quan trọng
trong cả Giáo Hội trong thiên niên kỉ thứ nhất. Đặc nét ấy vẫn còn tồn tại đến
ngày nay nơi các Giáo Hội Đông Phương, cụ thể là Giáo Hội Chính Thống Giáo. Riêng ở Giáo Hội Tây Phương, từ khoảng thế kỉ thứ VI trở đi,
tính hiệp hành, thể hiện cụ thể nơi các Công Đồng lại có phần suy yếu. Tại sao?
Từ thế kỉ thứ V-VI trở đi, với sự xuất hiện của thánh Lêô I tức
Lêô Cả (400-460) và thánh Grêgôriô I tức Grêgôriô Cả (540-604), nhu cầu xác
định về tối thượng quyền của Giám Mục Roma càng ngày càng được coi là một nhu
cầu cần thiết, bởi vì sự xâm lấn bất hợp lý của thế quyền thời bấy giờ. Các
cuộc họp Công Đồng trong cả Giáo Hội, dù là những hội đồng do các Giám Mục hội
họp và quyết định, nhưng thực tế đều do chính các Hoàng Đế triệu tập! Và không chỉ có phần ảnh hưởng trong các Công Đồng, các Hoàng Đế
còn gây ảnh hưởng lên các bổ nhiệm Giám Mục, thậm chí cả các cuộc mật nghị bầu
Giáo Hoàng. Để chấm dứt ảnh hưởng của thế quyền, Thánh Grêgôriô Cả và sau
này là Thánh Grêgôriô VII (1020-1085) đã khẳng định tối thượng quyền của ngôi
vị Giáo Hoàng với những tuyên bố rằng thần quyền phát xuất từ Thiên Chúa và
vượt trên thế quyền. Thật vậy, vì chính Đức Kitô đã trao chìa khóa Nước Trời
cho thánh Tông Đồ Phêrô (Mt 16, 19).
Việc tuyên bố về tối thượng quyền của Đức Giáo Hoàng cũng đòi hỏi sự tuân phục triệt để, và chính sự tuân phục
triệt để đó đã gìn giữ được sự hiệp nhất trong Giáo Hội vốn bị bao vây bởi bao thứ ly giáo, lẫn
những thế lực khác muốn lũng đoạn và phá hoại Giáo Hội. Vấn đề xác nhận tối
thượng quyền của Phêrô thực sự đã kéo Giáo Hội ra khỏi ảnh hưởng của nanh
vuốt của thế quyền đối với Giáo Hội. Tuy nhiên, khẳng
định này cũng dần đưa chức Giáo Hoàng tới một vị trí độc tôn như một vị “vua
các vua, chúa các chúa”. Các hoàng đế và vua chúa Tây Phương đều phải đến Roma
để được phong vương, và thần phục Đức Giáo Hoàng. Đức Giáo Hoàng được coi như
một nhà lãnh đạo độc quyền và bất khả xâm phạm. Những tưởng khi đã khẳng định lại thế thượng phong của thần
quyền để khỏi bị kìm kẹp bởi thế quyền và những lũng đoạn của quyền lực thế tục
thì Giáo Hội sẽ được yên ổn. Nhưng như bất kì mọi thể chế trần gian nào và dù
có tính thần thiêng mầu nhiệm, Giáo Hội cũng không tránh khỏi tính con người và
lại đi tới một thái cực khác: các Đức Giáo Hoàng có nguy cơ lãnh đạo Giáo Hội
một mình hay chỉ với một số ít vị lãnh đạo thân cận và mọi quyết định đều phải
quy chiếu về một quyền lực duy nhất là Đức Giáo Hoàng Roma! Đức Giáo Hoàng không chỉ là Đại Diện Thánh Phêrô như thánh Lêô
Cả đã gọi, nhưng sau này, với Đức Innocent III, Đức Giáo Hoàng còn là Người Kế
Vị Thánh Phêrô và Đại Diện (vicarius) Chúa Kitô. Việc công nhận tối thượng quyền của ngôi Giáo Hoàng là điều cần
thiết, nhưng một khi nó đi tới mức trao vào tay các Giáo Hoàng một quyền lực vô
hạn, thì xem ra tính hiệp hành trong Giáo Hội đã không còn được coi trọng nữa.
Cả thiên niên kỉ thứ hai, Giáo Hội Tây Phương đã chứng kiến điều ấy. Các vị
Giáo Hoàng coi các Giám Mục là những cánh tay nối dài và là những con cái của
mình, trong khi thực ra tất cả các vị đều là các Giám Mục, ngang nhau về thánh
chức và chỉ khác nhau về quyền quản trị và quyền tài phán.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là trong Giáo Hội Công Giáo
(Tây Phương) không có tính hiệp hành từ khoảng đầu thời Trung Cổ cho đến nay.
Dù tối thượng quyền nằm trong tay Đức Giáo Hoàng và trong thực tế, ngài là vị
giáo chủ tối cao của toàn thể Giáo Hội, ngài vẫn cai quản Giáo Hội cùng với các
Hồng Y, Giám Mục và đặc biệt là qua các Công Đồng Chung được triệu tập trong
lịch sử Giáo Hội. Ngoài ra, còn có rất nhiều những công đồng riêng của từng
miền, từng quốc gia trong lịch sử Giáo Hội, và các nghị quyết của các Thượng
Hội Đồng đó đã góp phần quan trọng trong đời sống tín lý, phụng vụ, luân lý và
bí tích của Giáo Hội. Đã có những lúc rối ren, đến mức nhiều người còn đòi đưa ý tưởng
về một chủ nghĩa công đồng (conciliarism) khi cho rằng Công Đồng có quyền trên
cả Đức Giáo Hoàng nữa (để cách nào đó, chế tài sự lạm quyền của các Giáo Hoàng
và đòi hỏi phải có một sự dân chủ hơn trong các quyết nghị được xác lập bởi
Giám Mục đoàn). Nhưng rồi ý tưởng đó không quen thuộc với truyền thống và thần
học Công Giáo. Dù vậy, Đức Giáo Hoàng vẫn cai quản Giáo Hội với sự góp ý, cộng
tác, chia sẻ của các vị lãnh đạo khác trong Giáo Hội. Nhưng dù sao, sự tham gia
của các Giám Mục cũng chỉ có tính tư vấn, góp ý cách rất rụt rè vì những truyền
thống xa xưa cũng như ảnh hưởng của kiểu cách quân chủ phong kiến, và chưa có
được một sự tham gia của hàng ngũ giáo dân, vốn chiếm đa số trong Giáo
Hội.
Tính hiệp hành trong bối cảnh Giáo Hội hiện nay
Với Công Đồng Vatican II, cả Giáo Hội đã chuyển mình. Các bộ môn
thần học được đào sâu và được nghiên cứu kĩ lưỡng đòi hỏi cần phải có những
cuộc canh tân bằng cách về nguồn và xác định lại những gì cốt cán trong suy tư
thần học và đời sống của Giáo Hội. Các Đức Giáo Hoàng đã quay trở lại gọi các
Giám Mục bằng danh từ frates, nghĩa là Hiền huynh/ Hiền đệ theo cách dịch Việt
Nam, một chi tiết tuy nhỏ nhưng lại hàm chứa một thay đổi về góc nhìn rất lớn.
Trước Vatican II, người Công Giáo chỉ biết tới
hai định chế của Huấn Quyền là Đức Giáo Hoàng với Vatican, và các Công Đồng.
Công đồng Vaticanô II đã tái khám phá tính hợp đoàn (collegiality) của
hàng giám mục. Vào thời nguyên thuỷ, Giáo Hội được điều khiển bởi tập đoàn các
tông đồ với thánh Phêrô là thủ lãnh, sang các thời đại kế tiếp, Giáo hội cũng
được điều khiển bởi tập đoàn các giám mục (kế nhiệm các thánh tông đồ) với giám
mục Rôma làm thủ lãnh (kế vị thánh Phêrô). Nhưng làm cách nào để tập đoàn các
giám mục có thể tham gia việc điều khiển Giáo hội? Việc tổ chức công đồng hoàn
vũ quy tụ gần ba ngàn giám mục là chuyện không đơn giản. Trong bối cảnh đó, nảy
ra đề nghị thiết lập một cơ quan đại diện tập đoàn Giám mục để góp ý cho Đức
Thánh Cha về việc điều hành Giáo Hội. Để đáp lại nguyện vọng đó, Đức Thánh Giáo
Hoàng Phaolô VI, qua tự sắc Apostolica sollicitudo ngày
15/9/1965 (nghĩa là vào lúc khai mạc khóa chót của công đồng) đã thiết lập Thượng
Hội Đồng Giám mục (Synodus episcoporum). Đây không phải là một “tiểu
công đồng” (mini-concilium) hoặc là một “quốc hội” gồm đại biểu của hàng giám
mục với vai trò lập pháp. Thượng Hội Đồng Giám Mục là một thể chế mang một hình
thái độc đáo, diễn tả sự cộng tác của tập đoàn các giám mục với Đức Thánh Cha
qua việc thông tin và góp ý. Như vậy nó là một cơ quan tư vấn chứ không quyết
nghị. Đó là một thể chế bền vững, nhưng không có tính cách thường trực (khác
với giáo triều Rôma): các khóa họp chỉ kéo dài một thời gian rồi kết thúc, và
thành phần các đại biểu của khóa tiếp sẽ thay đổi. Thượng Hội Đồng Giám Mục biểu lộ rõ nét tính hiệp hành mà Giáo
Hội đã thực thi trong quá khứ, giờ đây được hồi sinh cách mới mẻ.
Tính hiệp hành cũng được nhắc tới nhiều trong
các Thượng Hội Đồng Giám Mục gần đây. Đức Phanxicô đã nói tới tính hiệp hành
trong lời chào mừng các nghị phụ tham gia Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới
ngoại thường năm 2014. Trong diễn văn kỉ niệm 50
năm Đức Chân Phước (nay là Thánh) Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập Thượng Hội
Đồng Giám Mục Thế Giới, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Tính hiệp hành
là con đường mà Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba...
Như một tính năng động hiệp thông, tính hiệp hành, trên hết, là việc tích hợp
đầy cảm giới mọi tham dự viên, trong tinh thần đối thoại, để mọi người đạt được
một điểm đồng thuận... Mặc dù, tính hiệp hành thuộc từ vựng của Giáo Hội, nó có
giá trị cho cả xã hội nói chung. Được chấp nhận làm nguyên tắc làm việc cho thế
giới thế tục, tính hiệp hành có thể là phong thái hợp tác cho các mối liên hệ
liên ngã và tình huynh đệ nhân bản. Tính hiệp hành là thuốc chữa chống việc cô
lập, giúp chúng ta biết đánh giá cao vẻ đẹp của cộng đồng nhân bản. Cùng nhau
bước đi không phải lúc nào cũng là một nhiệm vụ dễ dàng, bất kể là đối với Giáo
Hội hay đối với xã hội, nhưng tất cả chúng ta đều cần phải thực thi thực hành
này, vốn có tính hết sức chủ yếu đối với tương lai”. Ngài muốn một
Giáo hội, “giống như một kim tự tháp ngược”, “hòa hợp mọi chủ thể có
liên quan với nó: dân Chúa, Hợp đoàn Giám mục, Người kế vị Thánh Phêrô” . Trong Tông Huấn Christus
Vivit, ngài dành một phần (từ số 203-208) để nói về tính hiệp hành trong việc
Giáo Hội cần quan tâm đồng hành với người trẻ. Đức Hồng Y Michael Czerny nhấn mạnh rằng trong khi tính hợp đoàn
(collegiality) chuyên biệt nói “đến việc thi hành thừa tác vụ của các giám
mục”, thì tính hiệp hành là một khái niệm “rộng hơn”, vì nó “ngụ ý sự tham gia
và sự can dự của toàn thể dân Chúa vào đời sống và sứ mệnh của Giáo hội”. Đây
là ý nghĩa mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã dành cho chữ “Thượng Hội Đồng”; nghĩa
là, không những chỉ cảm thức về “cơ cấu giáo hội”, mà còn là cảm thức về “hình
thức hiệp thông hữu hình”, về “con đường huynh đệ giáo hội, trong đó,
mọi người đã được rửa tội đều đích thân tham gia và đóng góp” . Trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về Amazon năm
2019, Đức Hồng Y Gracias nói rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban cho Giáo Hội
nền thần học về tính hiệp hành, và rất chú trọng đến nó, và trong Thượng Hội
Đồng Amazon, Giáo Hội đã có trải nghiệm thực sự về nó. Chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô
đã giải thích việc, tại Công Đồng đầu tiên ở Giêrusalem, các Tông đồ đã giải
quyết các vấn đề thần học ra sao bằng cách thảo luận về chúng và tìm ra một con
đường chung. Điều này, theo ngài, “đã làm sáng tỏ” việc phải xử lý các khác
biệt và giải quyết xung đột qua đối thoại như thế nào.
Tính hiệp hành cũng được nhắc tới nhiều ở Công
Nghị tại Đức, một biến cố đang diễn ra đang thu hút rất nhiều sự ủng hộ lẫn
chống đối. Có rất nhiều lập trường ủng hộ và chống đối dữ dội Công Nghị này.
Người ủng hộ thì cho rằng đã tới lúc Giáo Hội phải thay đổi và xét lại những
vấn đề (vấn đề quyền bính trong Giáo Hội, luật độc thân giáo sĩ, việc truyền
chức linh mục cho phụ nữ và các vấn đề luân lý tính dục) mà điển hình và nguyên
nhân là vụ bê bối lạm dụng tình dục của giáo sĩ khắp phương Tây làm cho cả Giáo
Hội phải điêu đứng khổ sở. Và người ta thấy rằng chính các Giám Mục - các thầy dạy đức tin
- không phải là các thần học gia hay giáo dân đã dẫn đầu Công Nghị này, khiến
cho người ta tự hỏi rằng phải chăng các vị mục tử đã thấy có những khoảng cách
hay lấn cấn cần phải giải quyết giữa cách sống đạo của người tín hữu và những
gì họ tin? Tuy nhiên, Công Nghị này cũng bị chỉ trích rất dữ dội, vì tình hình
ở Đức được coi là rất nghiêm trọng vì có khả năng dẫn tới một cuộc ly giáo. Và người ta tự hỏi rằng phải chăng các Giám Mục Đức đã bị lầm
lạc? Công Nghị này bị cảnh báo là sẽ vô hiệu về mặt Giáo Hội học vì đưa ra
những hiệu quả mang tính ràng buộc trong khi chỉ là một công nghị địa phương
chứ không phải là một công đồng hoàn vũ. Hơn nữa, tất cả mọi nghị quyết của bất kì Công Nghị/Công Đồng
miền nào hay Công Đồng chung nào cũng phải có sự đồng ý của chính Đức Giáo
Hoàng thì mới có hiệu lực (GL điều 341 §1), cũng như những nghị quyết của chính
Giám Mục đoàn (GL Điều 341 §2) cũng như không thể kháng cáo hoặc thượng tố
chống lại một án văn hay nghị định của Đức Giáo Hoàng (GL điều 333 §3). Vào
tháng 06/2019, chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã gửi một lá thư cho Giáo
Hội Đức, trong đó chính ngài ủng hộ con đường Công Nghị, tuy nhiên vẫn nhắn nhủ
Giáo Hội tại nước này đừng tiến hành một mình, trái lại quan tâm đến Giáo Hội
hoàn vũ và duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội và ưu tiên nhiều hơn đến vấn đề
truyền giáo. Ngài không cống hiến các giải pháp, không cấm thảo luận, nhưng
theo đường lối của Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, ngài nhắc nhở vị trí trung tâm
của Chúa Thánh Linh. Thư của Đức Thánh Cha có đoạn viết: “Mỗi khi một
cộng đoàn Giáo Hội tìm cách tự mình ra khỏi các vấn đề của mình, và chỉ tín
thác vào sức riêng, vào các phương pháp và trí thông minh của mình, thì rốt
cuộc Giáo Hội ấy chỉ gia tăng và nuôi dưỡng những tai ương mà họ muốn vượt qua”. Đây là một điều khá lạ, vì thực sự nếu một biến cố gây ra nhiều
tranh cãi trái chiều như thế mà nếu Đức Giáo Hoàng muốn, ngài có thể ngay lập
tức đóng cửa một Công Đồng chung, huống chi là Công Nghị này (GL điều 338 §1 và
điều 344). Thế nhưng ngài đã không làm và cũng không cũng không lên tiếng về
Công Nghị này ngoài lá thư trước đây ngài gởi, một lá thư mang giọng điệu khích
lệ và tôn trọng hơn là cảnh báo và nghiêm khắc. Tại sao? Phải chăng Đức
Phanxicô nhìn thấy nơi Công Nghị này có nhiều điều cần phải được bàn luận, trao
đổi, và phân định? Phải chăng chính ngài, như đã nhiều lần nói về tính hiệp
hành, cũng đang thực hành điều này và như chính ngài xưa nay đã không sợ bàn
luận, ý kiến trái chiều, không sợ công kích? Nếu vậy, thì xem ra với Đức
Phanxicô, thái độ này của ngài đứng trước một Công Nghị bị nhiều người dị ứng,
tiên đoán, chỉ trích là có thể hiểu được. Đàng khác, theo Giáo Luật, bất kì một quyết
định nào của một Công Nghị giáo phận hay một Công Đồng chung thì cũng phải có
sự đồng ý của chính Đức Giáo Hoàng mới có hiệu lực. Liệu khi nói tới “một Công
Nghị có hiệu quả mang tính ràng buộc”, các Giám Mục Đức có nói tới một thái độ
bất cần Tòa Thánh không? Chúng ta cũng chưa biết được. Dù vậy, trong một diễn
biến mới nhất, khi yết kiến Đức Phanxicô, Đức cha Georg Bätzing, Chủ tịch Hội
đồng giám mục Đức, cho biết Đức Thánh Cha biết rõ tình hình Giáo hội Đức và hy
vọng họ sẽ vượt qua những căng thẳng. Đồng thời Đức cha khẳng định Giáo hội Đức
không theo những con đường đặc biệt, có nguy cơ ly giáo, như có những người lo ngại
như thế. Có thực sự như thế không, chúng ta cũng chưa dám nói chắc. Nhưng
dù sao, nếu cứ theo chiều hướng như thế, Giáo Hội Đức sẽ có thể phải có được
cái gật đầu của Đức Phanxicô thì mọi quyết định mới có thể có hiệu lực, và như
thế, tình trạng ly giáo mong rằng sẽ không diễn ra chăng? Và, các nhà giáo luật
ở Vatican cũng không vừa, họ đã rào trước đón sau bằng những sửa đổi về giáo
luật gần đây nhất, nhằm hạn chế những cải cách thái quá ở Đức.
Đối với bản thân, người viết cảm thấy còn khá
sớm để dám đưa ra những kết luận hay nhận định về biến cố này, bởi lẽ chúng ta
không sống trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hóa của thế giới phương Tây
nên sẽ khó có cái nhìn toàn diện và chân thực. Người viết đồng tình với câu trả
lời của Đức Hồng Y Walter Kasper, “Tôi rất lo lắng, nhưng tôi thận
trọng trong việc đưa ra phán đoán tổng thể cuối cùng”. Tuy nhiên, cả bốn vấn nạn mà Giáo Hội Đức đưa ra không phải là
những vấn đề nhỏ. Nó không chỉ nên được biểu quyết bằng cách giơ tay, hay bầu
cử theo kiểu quốc hội hay nghị viện, nhưng cần phải có những nền tảng suy tư
thần học thật chắc chắn và vừa trung thành với truyền thống, vừa tự do với sức
thúc đẩy của Thần Khí, khi dám lắng nghe cảm thức đức tin (sensus fidei) của
các tín hữu một cách lành mạnh và kể cả phải có sự mạnh bạo (parrhesia) nữa khi
đối diện với rất nhiều những tình huống phức tạp trong đời sống mục vụ hôm nay.
Ta thử lướt nhanh qua:
· Vấn đề quyền bính trong Giáo Hội:
là một điều Giáo Hội cần suy tư mà khi thúc đẩy tính hiệp hành, chính Đức
Phanxicô đã dường như cho phép các Hội Đồng Giám Mục có nhiều quyền lợi hơn
thay vì cứ tập trung vào mọi quyết định của Vatican như xưa nay. Chuyện tản
quyền là cần thiết, nhưng tới mức độ nào, phương cách nào là những vấn đề cần
được thảo luận sâu xa.
· Vấn đề phong chức linh mục cho
nữ giới: dù đã được Thánh Gioan Phaolô II xác tín rằng Giáo Hội không
hề có thẩm quyền để phong chức Linh Mục cho phụ nữ và chính ngài dường như đã
muốn dẹp bỏ mọi bàn tán xôn xao về vấn đề này vào năm 1994 với Tông Thư
“Ordinatio sacerdotalis” , tuy nhiên, vẫn đây đó còn những phong trào, kể cả những suy tư
về vấn đề này. Liệu vấn đề này có phải tiếp tục cần được đào sâu thêm để có
được một xác quyết thần học và dẫn tới một thực hành (bởi lẽ đã là chân lý thì không sợ thảo luận), hay thực chất
ở bề sâu, những cơn sóng này chỉ khơi lên mong muốn để Giáo Hội có thể nâng cao
vị trí của người phụ nữ trong đời sống Giáo Hội hơn?
· Vấn đề bãi bỏ luật độc thân
trong hàng giáo sĩ: Cho dù có những ý kiến phản bác mọi tư tưởng nối
kết giữa luật buộc độc thân giáo sĩ và những bê bối về tình dục của hàng giáo
sĩ (như lạm dụng tình dục trẻ em chẳng hạn), nhưng thực tế, trong các khảo luận
thần học lẫn các tâm tư của các linh mục là những người chính thức sống trong
đời sống độc thân, người ta vẫn không thể phủ nhận được giá trị lẫn sức nặng
đôi khi đến mức khủng khiếp của nó. (Dĩ nhiên bên cạnh đó, có rất nhiều linh
mục khác vẫn cảm nhận đời sống độc thân là một cách thức không thể tuyệt vời
hơn để họ sống đời sống linh mục của mình) Chính vì thế, không biết đây có phải
là chủ trương của Công Nghị này hay không, nhưng ít ra là có một luồng tư tưởng
trong Giáo Hội những thập niên gần đây đề nghị cho việc độc thân linh mục không
còn là một luật buộc nữa, nhưng là một lựa chọn tùy ý, như thể các linh mục của
Giáo Hội Đông Phương hay Giáo Hội Chính Thống. Điều này chúng ta có thể thấy rõ nhất trong Thượng Hội Đồng Giám
Mục ở Amazon, khi đề xuất muốn phong chức cho các người đàn ông (viri probati)
đã có gia đình trở thành một tâm điểm gây tranh cãi rất lớn. Cho dù Đức
Phanxicô đã không đề cập tới vấn đề này trong Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng
Giám Mục Thế Giới (Querida Amazonia -Amazon Yêu Quý). Và cho dù đây không phải
là một vấn đề tín lý nhưng là một vấn đề thuộc về kỉ luật, nhưng nó đụng tới
nhiều vấn đề khác nên cần được luận bàn sâu xa.
· Và sau cùng, vấn đề luân lý tính
dục: Trong nhiều thế kỉ qua, giáo huấn luân lý về tính dục của Giáo Hội vẫn
bị lên án là nhiệm nhặt, khắc khổ và quá bi quan. Những khám phá của các khoa
học đã có cái nhìn cân bằng hơn về những vấn đề con người, tình dục và giới
tính. Thần học luân lý, đặc biệt là mảng luân lý tính dục sau Vatican II đã có
những nét chuyển mình rõ rệt: khoan dung hơn, tích cực hơn, đề cao việc khích
lệ và coi trọng luật tiệm tiến hơn thay vì nói đến tội lỗi, hình phạt, hỏa ngục
với cung cách đanh thép và cứng cỏi vì người ta hiểu được hơn về tính mầu nhiệm
của con người với tất cả nét mỏng dòn và cao cả của nó trong hành trình đời
người. Tuy nhiên, người ta vẫn còn thấy có những điểm mà giữa Giáo Hội và cuộc
sống vẫn chưa có một tiếng nói “hòa bình” được: Có thể nào giúp người đồng tính
luyến ái thay vì chỉ tuyên bố đây là tội và kia là không chăng? Có những chương
trình mục vụ nào giúp cho họ chăng? Chuyện ngừa thai nhân tạo đáng lên án tới
mức độ nào? (và, liệu rằng giáo huấn này còn được người Công Giáo giữ đến bao
nhiêu phần trăm?)… Người ly dị tái hôn nói cho cùng thì có được rước lễ không,
hay lại phải tùy vào cha giải tội như Tông Huấn Amoris Laetitia đã chủ trương
và chính Tông Huấn này đã gây ra những tranh cãi bất tận cho đến nay? Tất cả
những vấn đề đó cần được đào sâu và nói thẳng, rõ ràng, không giáo điều, úp mở.
Đó là điều Công Nghị Đức đang làm. Thế nhưng liệu một Công Nghị của một quốc
gia có thể có cái nhìn tổng quát và toàn diện không? Và dù cho có ý tốt, nhưng
cách làm của họ sẽ dẫn đến kết quả tốt không? Mọi sự chưa dễ trả lời…
Thôi, hãy tạm dừng những suy tư về Công Nghị ở
Đức. Thay vào đó, chúng ta hãy lưu ý chuyện Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Thượng
Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 2022 sắp tới. Vào
năm thứ chín triều giáo hoàng của ngài, Đức Phanxicô phát động một “tiến trình
hiệp hành” đầy tham vọng kéo dài 3 năm trên toàn thế giới, và sẽ kết thúc vào
tháng 10 năm 2023 tại Rôma với buổi họp thường kỳ lần thứ XVI của Thượng Hội
Đồng Giám Mục. Có ba cấp trong tiến trình Thượng Hội Đồng
này: Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn cấp giáo phận,
sẽ được Đức Phanxicô khai mạc vào ngày 09&10/10/2021, và một tuần sau đó
tại các giáo phận. Cho đến tháng 04/2022, kế đó là giai đoạn “lắng nghe tất cả
những người đã được rửa tội”. Một bảng câu hỏi sẽ được gởi từ Rôma đến toàn thế
giới, và được dùng để đưa ra bản tóm tắt đầu tiên sẽ được công bố vào tháng
04/2022. Sau đó, một giai đoạn suy tư sẽ bắt đầu ở cấp lục địa. Các tổ chức quy
tụ các giám mục của một châu lục, như SCEAM (Châu Phi), CELAM (Châu Mỹ Latinh)
hoặc CCEE (Châu Âu) sẽ kéo dài đến tháng 03/2023 để gởi bản báo cáo của mình.
Và từ đó sẽ được dùng để chuẩn bị một báo cáo mới, được công bố vào tháng
06/2023. Chính tài liệu này sẽ là công cụ làm việc cho các đại diện của Thượng
Hội Đồng Giám Mục tại Rôma vào tháng 10/2023.
Như vậy, Thượng Hội Đồng sẽ chiếm nhiều thì giờ
và sức lực của người Công giáo ở cấp địa phương, giáo phận, quốc gia và quốc tế
trong gần ba năm, bao gồm các hội dòng địa phương, các giáo phận trong việc gom
lại các kết quả và chia sẻ với các giáo phận khác, các giám mục tham gia vào
các cuộc nói chuyện, cùng xem xét và báo cáo với văn phòng Rôma để lên chương
trình nghị sự cho Thượng Hội Đồng.
Tính hiệp hành, một dấu chỉ thời đại?
Hiện nay, người ta bắt đầu nói tới những cuộc chuyển mình ở nhiều
nơi: Có một Thượng Hội Đồng khoáng đại mang tính lịch sử của Úc sẽ tổ chức cuộc
họp đầu tiên vào tháng 10/2021. Và như đã nói, đã có một con đường Công Nghị
đang được tiến hành ở Đức. Các công việc chuẩn bị đang tiến hành cho một Thượng
Hội Đồng quốc gia ở Ireland, và sau nhiều lần được Đức Giáo Hoàng thúc đẩy,
cuối cùng Giáo Hội ở Ý cũng bắt đầu lên kế hoạch cho Thượng Hội Đồng của mình.
Các biên tập viên của tạp chí America do các tu sĩ Dòng Tên điều hành
vừa cổ động cho một cuộc họp khoáng đại của Giáo Hội Công Giáo ở Hoa Kỳ. Ở cấp
độ siêu quốc gia, các giám mục Châu Mỹ La Tinh đã thành lập cuộc họp Giáo Hội
của riêng mình, lần đầu tiên với toàn thể Giáo hội Châu Mỹ La Tinh và vùng
Caribê.
Người viết nhận thấy tính hiệp hành là một dấu chỉ của thời đại
(sign of time). Nó xuất hiện nhiều lần và được nhắc tới trong đời sống Giáo Hội,
và nó diễn tả một nhu cầu của đời sống Giáo Hội. Nhưng thực ra nhu cầu này
không mới, nó đã xa xưa như chính sự hiện hữu của Giáo Hội. Đức Hồng Y Michael Czerny cho rằng tính hiệp hành không phải chỉ là “một
diễn trình ra quyết định” nhưng là “nét căn bản của bản sắc
Giáo Hội” . Tiến trình hiệp hành này diễn ra vào thời điểm bấp
bênh do đại dịch corona virus, càng làm cho nó có
ý nghĩa, khi là những con người của Giáo Hội, chúng ta liên đới với nhau và
cùng đi chung với nhau, cùng suy tư chung với nhau, bàn luận chung với nhau về
những vấn đề của Giáo Hội, dưới ánh sáng của Lời Chúa và sự hiệp thông nơi
Thánh Thể. Phải chăng, Đức Phanxicô
muốn Giáo Hội không chỉ “nói” về các Thượng Hội Đồng, nhưng là sống một cách cụ
thể, trải nghiệm với tinh thần Thượng Hội Đồng - tức là tính hiệp hành - và
thực hiện dần dần để có thói quen quản trị mới?
Tuy nhiên, dù trên lý thuyết thật đẹp, nhưng
trong thực tế, sống tính hiệp hành này không hề dễ dàng. Nó có nguy cơ để
Vatican mất đi quyền lực của một định chế trung ương. Việc tản quyền cho các
địa phương cũng có thể làm suy yếu tối thượng quyền của Đức Giáo Hoàng nếu được
hiểu và thực hành sai. Về lý thuyết, quá trình này sẽ cho phép sự tham vấn rộng
rãi hơn giữa những người Công Giáo trên thế giới, cả giám mục, linh mục, tu sĩ
và giáo dân chứ không phải chỉ là các ý kiến của các Giám Mục mà thôi. Tuy nhiên,
những người chịu trách nhiệm liên lạc, điều phối và báo cáo, nếu họ không ngay
thẳng, công tâm và quyết tâm tìm thánh ý Thiên Chúa mà thôi nhưng tìm những cơ
hội lèo lái tiến trình ấy theo một ưu tiên nhận định, một ý thức hệ theo ý
thích của họ - thì chính quá trình hiệp hành có thể tạo ra tác dụng ngược lại. Thật vậy, Giáo Hội không phải là nghị viện, và
Đức Phanxicô thường cảnh báo không nên giải thích tính hiệp hành là chủ nghĩa
nghị viện để người ta cứ quyết định theo số đông là đủ. Và Đức Hồng y Joseph
Tobin cho biết rằng chính Đức Phanxicô cũng đang “điều chỉnh bộ máy” của
Thượng Hội Đồng Giám Mục. Theo ngài, tính hiệp hành là một “thuật ngữ
thông dụng của triều đại Giáo hoàng này” và thường bị hiểu nhầm là
thiếu định hướng hoặc “tìm cách đồng hành, nhưng không hoán cải”. Việc chia rẽ sâu sắc về quan điểm của các nhà
thần học lẫn các vị lãnh đạo Giáo Hội từ đầu triều đại Đức Phanxicô đã bị
truyền thông thế tục coi là một thị trường béo bở để giật tít kiếm tiền cũng
như là dịp để họ công kích Giáo Hội đến chưa từng có, nhưng dường như chính Đức
Phanxicô chấp nhận chuyện này. Ngài không sợ Giáo Hội bị mắc cỡ. Ngài là một cụ
già muốn mọi thứ “xáo tung” lên nhờ Gió của Thần Khí, rồi tìm cách phân định,
bàn hỏi, tranh luận, và tìm ý Chúa. Và, chính qua những điều này vốn thể hiện
rất rõ tính hiệp hành mà Giáo Hội tìm ra thánh ý Thiên Chúa qua cảm thức đức
tin (sensus fidei) của các tín hữu. Chuyện tiến trình Thượng Hội Đồng năm 2023
diễn ra ở ba cấp, với những bản hỏi được phát ra cho từng người Công Giáo đã
được rửa tội là một dấu chỉ rõ ràng nhất Đức Phanxicô muốn nghe ý kiến từng
người một chứ không phải chỉ những ý kiến đầy lý
thuyết, vâng lời ngoan ngoãn đến mức thiếu lưu tâm tới những vấn nạn trong đời
sống mục vụ của các vị lãnh đạo hay các nhà thần học bàn giấy mà thôi. Nhưng
điều quan trọng là mọi bậc của tiến trình này cũng phải cần có sự minh bạch,
công tâm, tôn trọng và tự do trong ngôn luận và quan điểm, từ cấp độ giáo phận
đến châu lục và hoàn vũ. Bằng không thì chúng ta cũng sẽ vẫn chỉ nghe được
những điều “xưa nay vẫn thế”, với sự thận trọng dè dặt và khôn ngoan mục vụ cố
hữu của các vị lãnh đạo hay các nhà thần học.
Trong thực tế, những cơ hội bao giờ cũng bao gồm
những rủi ro. Sự hiệp nhất mà tính hiệp hành mang lại không rẻ tiền, dễ dãi
nhưng có được nhờ tiến trình phân định thánh ý Thiên Chúa. Việc phân định, một
đặc sản của thánh Inhã nói riêng và dòng Tên nói chung đã trở nên gia sản chung
của Giáo Hội trong gần nửa thiên niên kỉ nay, giờ đây lại trở nên một thứ “ơn
hiện sủng” cho đời sống Giáo Hội giữa bao cuồng sóng đảo điên của thế giới hậu
hiện đại này. Chính nhờ điều đó mà chúng ta mới thấy được rằng Thiên Chúa vẫn
tiếp tục điều hành và hướng dẫn Giáo Hội trong hành trình lữ thứ đời này. Có thể nói, đây là cuộc cách mạng lâu dài mà Đức Phanxicô đề xướng
trong Giáo Hội: một tinh thần đối thoại, lắng nghe, không sợ hãi né tránh, không
áp đặt, nhưng cùng nhau tìm ra hướng đi chung cho Giáo Hội. Đó là tinh thần rất
cần thiết cho đời sống Giáo Hội, nhất là trong thời điểm hiện nay. Điều quan trọng, là có được những ý kiến thực tế của
tất cả mọi người, nhưng cần phân định, bàn luận, cầu nguyện dựa trên những nền
tảng thần học chắc chắn (khởi nguồn từ Kinh Thánh và Truyền thống sống động của
Giáo Hội), vốn dĩ trung hòa giữa những khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến, cũng
như tham khảo tiếng nói của cả các khoa học nhân văn nữa, vốn vẫn được coi là
một phần của mạc khải tự nhiên.
Chúng ta không nói trước được tương lai. Điều chúng ta chỉ có thể
nói mà không sợ sai lầm, đó là trong mọi sự, Giáo Hội luôn luôn cần nhìn về Đức
Kitô và Tin Mừng của Người, và với ý thức để cho Thánh Thần soi sáng Giáo Hội
tới những nẻo đường đầy ngạc nhiên và mới mẻ. Từ đó, Giáo Hội truyền đạt lại ý
muốn Thiên Chúa cách trung thực và trung thành. Cùng lúc đó Giáo Hội cũng như
luôn mở ra với luồng gió của Thánh Thần, Đấng vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội
và rồi sẽ dẫn Giáo Hội “tới chân lý vẹn toàn” (Ga 16,13) qua
cảm thức đức tin chân chính của mình, dù hiện nay Giáo Hội ấy vẫn còn đang trên
đường lữ hành. Bởi vì trong hành trình trần thế này, Giáo Hội, trong khi vẫn cần giữ lấy truyền thống của
mình vì thực sự tin rằng giáo huấn của Thiên Chúa là Tin Mừng cho thế giới nên
cần làm thế nào để giữ cho giáo huấn này không bị pha loãng, đồng thời cũng cần
phải bước vào cuộc đối thoại với thế giới theo cách thức Giáo Hội có thể nói,
kể cả đối với những vấn đề của thời đại. Và vì vậy, Giáo Hội cần vừa nhấn mạnh đến
giáo huấn vừa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc đối thoại, vừa có thể tự do
vừa ở có thể trung thành với Đức Kitô. Điều này đòi hỏi Giáo Hội cần phải cùng
nhau hiệp hành với nhau trên nẻo đường trần thế này.
Nhưng, liệu một Thượng Hội Đồng Giám Mục có giải
quyết được tận gốc rễ những vấn đề và khó khăn trong đời sống hiện tại không?
Hay người ta phải trông chờ đến một Công Đồng Chung mới?
Lễ Thánh Phêrô và Phaolô Tông
Đồ
(29/06/2021)
Con chiên nhỏ
LOUP BESMOND DE
SENNEVILLE, Dời Thượng hội đồng về tính đồng nghị đến năm 2023, Đức
Phanxicô nghĩ đến các hạn chế của đại dịch nhưng cũng để “lắng nghe tất cả
những người đã được rửa tội”, bản dịch của Giuse Nguyễn Tùng Lâm, đăng
ngày 26/05/2021, truy cập ngày 15/06/2021,phanxico.vn
UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC
TẾ, Tính Hiệp Hành Trong Đời Sống Và Sứ Vụ Của Hội
Thánh (Synodality In The Life And Mission Of The Church), 2018, số 5,
truy cập ngày 25/06/2021,vatican.va
Chữ Thượng cho chúng ta
cảm giác rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục thì cao cấp hơn Hội Đồng Giám Mục của
các quốc gia. Thực ra không phải như vậy. Chữ Thượng trong tiếng Hán-Việt có
nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa có nghĩa là tiến lên (giống thượng lộ). Đúng
ra phải đọc là Thướng nhưng tục quen đọc xưa nay trại thành Thượng, theo Từ
Điển Hán Việt của cụ Đào Duy Anh và Hán Việt Tân Từ Điển của Nguyễn Quốc Hùng
(tham khảo và trao đổi của của người viết với Khắc Đỗ, một nhà thơ và là bạn
chủng sinh đồng môn-đồng khóa). Như vậy, Thượng (tiến lên) Hội (đoàn) Đồng
(cùng) Giám Mục là một từ diễn tả rất xác đáng chữ Synodus episcoporum.
TRẦN HUỲNH TÂM ANH, “Synodality”-Một
thuật ngữ, một hành trình, truy cập ngày 25/06/2021, ymagazine.net
P.TIHON, Lịch sử tín
điều, phần II: Giáo Hội, Tủ sách Thần học, 2009, trang 47
BRUNO CHENU, Disciples
d'Emmaüs, NXB Bayard, Paris, 2003, trang 147
ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ,
Ibid, số 31
PX ĐÀO TRUNG HIỆU
OP, Cuộc lữ hành đức tin, tập I: Giáo Hội thượng cổ và trung cổ,
2005, trang 37
ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC
TẾ, Ibid, số 26
VINHSƠN BÙI ĐỨC SINH
OP, Lịch sử Giáo Hội Công Giáo, California, 2009, trang 132-133
VINHSƠN BÙI ĐỨC SINH
OP, Ibid, trang 294
PHÙNG VĂN HÓA, Con
đường Đồng Nghị và con đường Sự Thật, đăng ngày 10/02/2020, truy cập ngày
26/06/2021, daobinh.com
PHÊRÔ NGUYỄN THANH
TÙNG, 266 Triều đại Giáo Hoàng trong dòng lịch sử Giáo Hội, NXB Tôn
Giáo, 2014, trang 111
ĐÌNH VƯỢNG, Quan
hệ Vatican & Giáo Hội Công Giáo, trang 260-266
P.TIHON, Ibid,
trang 127-129
LM. ANT. NGUYỄN NGỌC SƠN, Thượng Hội đồng Giám mục, đăng ngày 18/10/2012, truy cập ngày
25/06/2021, tgpsaigon.net
PHANXICÔ, Diễn
văn chào mừng các nghị phụ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới ngoại
thường năm 2014, đăng ngày 06/10/2012, truy cập ngày 26/06/2021, vatican.va
PHANXICÔ, Diễn văn kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám
mục, đăng ngày 17/10/2015, truy cập
ngày 26/06/2021, vatican.va
VŨ VĂN AN, Đức
Hồng Y Czerny: Tính đồng nghị là nét căn bản của bản sắc Giáo Hội, đăng
ngày 01/01/2021, truy cập ngày 25/06/2021, vietcatholic.com
Vũ Văn An, Cuộc
họp báo ngày 23 tháng 10 tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về Amazon: vai trò phụ
nữ, hội nhập văn hóa, tính đồng nghị, đăng
ngày 23/10/2019, truy cập ngày 25/09/2021, vietcatholic.com
GIUSE
TRẦN ĐỨC ANH OP, Có
viễn tượng ly giáo tại Đức hay không?, đăng
ngày 04/11/2019, truy cập ngày
26/06/2021, vaticannews.va
HANS
FEICHTINGER, Những Điều Cần Biết Về
Tiến Trình Công Nghị ở Đức, bản dịch của Jb. Đặng
Minh An, đăng ngày 13/02/2021,
truy cập ngày 26/06/2021, vietcatholicnews.net
LỆ HẰNG
FMA, Tòa Thánh nói tiến trình
công nghị “có hiệu quả ràng buộc” của các Giám mục Đức là vô giá trị, đăng ngày 14/09/2019, truy cập ngày 26/06/2021, gpvinh.org
GIUSE
TRẦN ĐỨC ANH OP, Thư Đức Thánh Cha gửi
Hội đồng Giám mục Đức về “con đường công nghị”, đăng ngày 30/06/2019, truy
cập ngày 26/06/2021, rvasia.org
Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn ngày 08/06/2021 với Passauer
Bistumsblatt, Đức Hồng Y Walter Kasper, một nhà thần học tên tuổi
đã tỏ ra rất lo ngại về Công Nghị Đức. Tuy nhiên, điều đáng nói là chính vị
Hồng Y-Nhà thần học này đã từng được coi là một nhà thần học cấp tiến khi đề
nghị cho các tín hữu ly dị tái hôn được rước lễ, điều đã gây ra những tranh cãi
rất căng thẳng trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình năm 2014. Liệu vị
Hồng Y này đã bớt đi nét cấp tiến trong quan điểm của ngài, hay chính Công Nghị
Đức đang trên đà rất nguy hiểm? Theo Đức Hồng Y, điểm quan trọng là những quyết
định của Công Nghị này thiếu cơ sở và nền tảng thần học mà chỉ dựa trên những
quyết định vội vã. Xem bài viết của VŨ VĂN
AN, Đức Hồng Y Kasper rất lo lắng về Con Đường Đồng Nghị của
Giáo hội Đức, đăng ngày 11/06/2021, truy cập ngày 27/06/2021, vietcatholic.com
HỒNG THỦY, Đức cha
Chủ tịch Hội đồng giám mục Đức yết kiến ĐTC, đăng ngày 26/06/2021, truy cập
ngày 26/06/2021, tgpsaigon.net
VŨ VĂN AN, Cải tổ
giáo luật về hình sự của Đức Phanxicô ngăn cản mưu toan phong chức phụ nữ của
Giáo Hội Đức, đăng ngày 06/04/2021, truy cập ngày 29/06/2021, conggiao.info
VŨ VĂN AN, Đức Hồng Y Kasper rất
lo lắng về Con Đường Đồng Nghị của Giáo hội Đức, đăng ngày 11/06/2021, truy cập ngày 27/06/2021, vietcatholic.com
LINH
TIẾN KHẢI, Lý do Giáo Hội không
truyền chức Linh Mục cho nữ giới, đăng ngày 15/07/2008,
truy cập ngày 26/06/2021,archivioradiovaticana.va
Như vấn đề chức nữ phó
tế mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã triệu tập một ủy ban để đào sâu, nhưng thực tế
cho tới nay dường như chưa đưa tới kết quả gì, ngoài những bằng chứng cho thấy
trong thời sơ khai, chức nữ phó tế chỉ đơn giản là một thừa tác vụ hơn là một
thánh chức liên quan tới bàn thờ và sự thánh hiến.
DONALD COZZEN, Freeing
Celibacy, (Đời độc thân tự nguyện) bản dịch của LM Giuse Trần Đình
Thụy và Nhóm Hương Đồng Bằng, NXB Tôn Giáo, 2016
MASSIMO FAGGIOLI, Tiến trình thượng hội đồng 2021-2023, Đức
Phanxicô đưa ra dự án công giáo toàn cầu quan trọng nhất kể từ Công đồng
Vatican II, bản dịch của Giuse
Nguyễn Tùng Lâm, đăng ngày 29/05/2021, truy
cập ngày 25/06/2021, phanxico.vn
LOUP BESMOND DE
SENNEVILLE, Dời Thượng hội đồng về tính đồng nghị đến năm 2023, Đức
Phanxicô nghĩ đến các hạn chế của đại dịch nhưng cũng để “lắng nghe tất cả
những người đã được rửa tội”, bản dịch của Giuse Nguyễn Tùng Lâm, đăng
ngày 26/05/2021, truy cập ngày 26/06/2021, phanxico.vn
ANDREW HAMILTON, Vì sao Đức Phanxicô đặt tầm quan trọng rất
lớn trên tính công nghị,
bản dịch của Giuse Nguyễn Tùng Lâm, đăng ngày 08/06/2021, truy cập ngày 25/06/2021, phanxico.vn
MASSIMO FAGGIOLI, Tính đồng nghị và quyền tối cao của giáo
hoàng, bản dịch của Giuse
Nguyễn Tùng Lâm, đăng ngày 02/05/2021, truy
cập ngày 25/06/2021, phanxico.vn
Một
trong ba hoặc bốn từ ngữ quan trọng nhất của Công đồng Vatican II.
VŨ VĂN AN, Đức
Hồng Y Czerny: Tính đồng nghị là nét căn bản của bản sắc Giáo Hội,
đăng ngày 01/01/2021, truy cập ngày 25/06/2021, vietcatholic.com
JEAN-MARIE GUÉNOIS, Những cải cách tưởng như không có gì nhưng
lại thay đổi tất cả,
bản dịch của Giuse Nguyễn Tùng Lâm, đăng ngày 05/06/2021, truy cập ngày 25/06/2021, phanxico.vn
ĐẶNG TỰ DO, Đức Thánh Cha Phanxicô thay đổi chương trình của Thượng Hội đồng
Giám mục, đăng ngày 21/05/2021,
truy cập ngày 26/06/2021, vietcatholic.com
Thật ra, việc có những
bản hỏi đã bắt đầu ở Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2018 về giới trẻ. Để chuẩn bị
Thượng Hội Đồng này, Tòa Thánh đã lắng nghe nhiều tiếng nói trong Giáo
Hội: Bản Câu Hỏi, chủ yếu ngỏ với các Hội
Đồng Giám Mục, một Hội Thảo Quốc Tế về Thân Phận Tuổi Trẻ đã diễn ra, với sự tham
dự của nhiều nhà chuyên môn và giới trẻ, một bản Câu Hỏi Trực Tuyến đa ngôn ngữ
của Văn Phòng Thượng Hội Đồng đã được soạn thảo và được một số Hội Đồng Giám
Mục phiên dịch, và các câu trả lời đã nhận được từ hơn 65.000 người trẻ. Ngoài
ra còn có cuộc Gặp mặt tiền Thượng Hội Đồng đã diễn ra). Đây là một bước
tiến khá lớn nơi các vị mục tử khi có thể lắng nghe những tiếng nói của người
trẻ, trong số đó có rất nhiều tiếng nói trái chiều, thậm chí có vẻ không tán
đồng.
SANDRO MAGISTER, Francis’
Patient Revolution, đăng ngày 24/10/2014, truy cập ngày 28/05/2020, repubblica.it