Phần này (32B) bổ túc cho bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: nên mười tuổi và nên hoa” (phần 32) về hai cách dùng bình lang (tân lang, cây cau) và (đảo) Côn Lôn/Côn Nôn. Các dữ kiện cho thấy
khuynh hướng lẫn lộn n và l đã từng xẩy ra cho đến ngày hôm nay. Trong tuần lễ
soạn phần bổ túc (giữa tháng 8 năm 2021), người viết (Nguyễn Cung Thông/NCT)
còn thấy trên các mạng truyền thông hiện tượng lẫn lộn n và l như trong các
utube ở phần sau. Hi vọng loạt bài viết này là động lực cho người đọc tìm hiểu
sâu xa hơn và khám phá nhiều điều thú vị về tiếng Việt phong phú của chúng ta.
Phụ
Trương – A. "binh lang" (cây cau) B. (đảo) “Côn Lôn/Nôn” C. Utube - tiếng
Việt khắp nơi (8/2021).
A1.
Binh lang 梹榔 - tự điển Béhaine
(1772/1773)

Tự
điển Béhaine (1772/1773).
A2. Taberd có hiệu đính tự điển
Béhaine - thêm mục lang hoa cần

Tự
điển Taberd (1838).
A3. Trong mục liệt kê các tên cây trái ở cuối tự điển, LM Taberd cũng lập lại cách dùng binh
lang này
A4. Không thấy cách dùng tân lang HV trong
các tài liệu bằng chữ quốc ngữ này (và trước thời đó). Tự điển Theurel dùng tân lang nhưng chỉ cau mới (còn tươi,
areca recens/L) so với binh lang là cau khô (chép lại từ Taberd/Béhaine, areca
sicca/L). Tân HV viết bằng bộ cân 新 nghĩa
là mới (tân lang là cau tươi/mới lặp lại ở mục tân trang 428). Tân lang 新郎 còn có
nghĩa là chàng rễ, như vậy tân lang có
3 nghĩa khác nhau với ba cách viết (chữ Nho) khác nhau, khó nhận ra nếu chỉ
dùng con chữ La Tinh!

Tự điển Theurel (1877) trang 227.
A5.
Trang 540 - Đại Nam Quấc Âm Tự Vị - cũng như Tam Thiên Tự/Ngũ Thiên Tự chỉ dùng
lang để chỉ cau (không thấy dùng tân - xem thêm chi tiết trang 227, tự
điển Theurel ở trên)

B1.
Marco Polo (1292)
viết về hai đảo Côn Sơn (lớn và nhỏ) mà ông gọi là Sondur và Condur trong
bài viết về chuyến hải hành từ TQ về Ấn Độ. Tạm dịch/NCT:” Khi rời Chăm Pa được 700 dặm và về hướng Nam - Tây Nam, ta sẽ đến hai
đảo: một lớn một nhỏ tên là Sondur
và Condur”. Phần dịch ra tiếng
Anh trang 219 "The Book of Ser Marco Polo" của tác giả Henry Yule
(London, 1871), một đoạn liên hệ được chụp lại ở đây:

B2. Bản đồ của Giacomo Gastaldi
(Rome, 1561) - tên đảo là pulo candor
(Côn sơn)

B3. Bản đồ của Jan Huygen Van
Linschoten (Amsterdam, 1596) – tên đảo
là Pulo condor

B4. Bản đồ của Jodocus
Hondius/Samuel Purchas (1610-1625)
cho thấy tên đảo P. candor - để ý
nguyên âm a trong tên candor (không phải o như các bản đồ sau đó, xem phụ chú 3).

B5. Bản đồ của Mariette (khoảng 1650)
cho thấy tên đảo Pulo Candor

B6. Bản đồ của Frederick De Wit
(1662) cho thấy tên đảo Pulo Condor

B7. Bản đồ của nhà thám hiểm
người Anh William Dampier ở Côn Sơn khoảng một tháng để bảo trì tàu (tháng 4 năm 1687) - ông cũng ghi lại
hai đảo lớn (the Great Island, có người
ở) và đảo nhỏ (the Lesser Island,
không người ở). Sau đó tàu ông cũng đi qua và ghé Pulo Ubi (Hòn khoai) vài ngày trước khi vào nước Xiêm. Để ý trong
cùng một trang có khi viết là Pulo
Condor có khi là Pulo Condore.

B8. Bản đồ của Herman Moll (khoảng
1717) – P. Condor

B9. Bản đồ Herman Moll (1730, London)

B10. Bản đồ của J.V. Schley
(Amsterdam, 1773) – Pulo Condor

B11. Mục côn - tự điển LM Béhaine (1772/1773). Để ý dạng chữ Nôm nôn viết bằng bộ san 山
ở trên + chữ nộn 嫩 viết tắt
thành 束.

B12.
Mục côn - tự điển LM Taberd (1838) - hầu như chép lại hoàn toàn từ tự điển
Béhaine.

B13
An Nam Đại Quốc Họa Đồ (Taberd, 1838) - để ý tên Mã Lai của hai (nhóm) đảo: Pulo (đảo) Ubi (khoai) > Hòn Khoai, so với Pulo (đảo) Condor (kundur:
loài bí đao/xanh và lớn).

B14.
Trang 187 - Đại Nam Quấc Âm Tự Vị: Côn nôn (thời Béhaine/Taberd cho đến
Vallot/Génibrel/Bonet cùng thời với Huỳnh Tịnh Của) cũng là Côn lôn:

B15.
Theo bản dịch của tác giả Ngô Lập Chí (1959, bản viết tay), Phủ Biên Tạp Lục
(Lê Quí Đôn, 1776) ghi "Ngoài khơi
phủ Bình-thuận có đảo Côn-luân cung
có nhiều yến sào, ngoài nữa lại có cù
lao Khoai có nhiều hải vật và vật hóa ở các tàu thuyền trôi dạt. Họ Nguyễn
lập đội hải môn để tìm kiếm. Cửa bể Gia-định cũng có núi Côn-luân, ngoài bể
trấn Hà-tiên có núi Đại-Côn-luân có dân ở".
B16. Trang 30 của "History of a voyage to the
China sea" tác giả John White (xuất bản năm 1823) kể
lại cuộc hải hành vào năm 1819:

Tạm dịch/NCT: "Vào ngày thứ 5, gió tăng mạnh hơn nhưng dễ chịu và đến từ hướng Nam
Đông Nam, cũng là ngày chúng tôi chạy ngang qua đảo Pulo Oby, nằm cách vùng Đông Nam Cambodia khoảng vài hải lý (một hải
lý = league ~ 5 cây số/km - NCT). Vào ngày thứ 6, đảo Pulo Condore bắt đầu hiện ra với những ngọn núi cao tận mây xanh.
Nước Anh từng có một pháo đài và xưởng sản xuất ở đây để cho dễ giao thương với
TQ và các miền dọc bờ biển Cambodia; nhưng tất cả đã bị tiêu hủy vào năm 1705 cũng như lính Anh bị tàn sát
bởi quân Macassar từng được mình mướn trên đảo ...".
B17. Bản đồ trích từ cuốn "Journal of an Embassy from the
Governor-General of India to the courts of Siam and Cochin" của John
Crawford (1830): hai đảo Pulo Ubi và Pulo Condore.

B18. Trang 304 "Journal of an Embassy from the Governor-General of India
to the courts of Siam and Cochin" (1830).

Tạm dịch (NCT) : “hai chữ Pulo Condore, tiếng Mã Lai, có nghĩa là đảo bí đao
- người An Nam không biết các chữ này mà gọi đảo này là Kohnaong (theo tiếng Anh đọc gần như côn non/NCT - tương tự như các
tên gọi ghi trong bản đồ Taberd (1838)”.
B19. Bản đồ Pulo Condor (tiếng
Anh, 1885).

B20. Bản đồ của NXB Sayer (London, tháng tư năm 1778) - có hai địa danh đáng chú ý: Great Pulo Condor (đảo Côn Sơn lớn) và Little Condor (đảo Côn Sơn nhỏ) tương
ứng với hai địa danh Đại Côn Lôn, Tiểu
Côn Lôn 大昆侖, 小昆侖 xuất hiện trong các tài liệu bằng Hán ngữ như Hải Quốc Văn Kiến Lục (tác
giả Trần Luân Quýnh 1687-1751) hay “Đại Thanh vạn niên nhất thống
địa lý toàn đồ”.
Hòn Côn Lôn/Nôn
lớn là Côn Sơn hay Phú Hải (51.52 km²) và hòn Côn Lôn/Nôn nhỏ là Hòn Bà, Phú
Sơn (5.45 km²).

Tóm lại, dạng Côn Lôn đã từng hiện diện trong các
tài liệu Hán trung cổ so với dạng Condor(e) của tiếng Mã Lai/Inđônêsian. Phụ âm
đầu lưỡi đ (trong condor) đã nhập vào tiếng Hán với dạng l hay -dor > -lôn
cũng như tiếng Mã Lai durian (sầu riêng):
*durian (Proto-Malayic) > *lulien (lưu/lâu liên) 流連 , 榴槤 > *sâu *riên > sầu riêng
…(3)
*kundur/condor > 崑崙 /kuən luən/ > côn lôn/luân > côn nôn
(> côn sơn) …(4)
Đặc biệt là các đảo Mã Lai như Pulo
Pinang (đảo cau), Pulo Ubi (đảo khoai lang), Pulo Condor (đảo bí xanh/đao) đều
nằm ở phía Nam VN và mang tên thực vật thường gặp ở khu vực nhiệt đới này. Thêm vài dữ kiện về
tương quan của các phụ âm đầu lưỡi đ và l và phụ âm -r và -n trong tiến trình
biến âm condor > côn lôn (4), dựa một phần vào bài viết
"A Chinese Vocabulary of Malacca
Malay Words and Phrases Collected between A. D. 1403 and 1511 (?)" của
các tác giả E. D. Edwards và C. O. Blagden trong tạp chí Bulletin of the School
of Oriental Studies, University of London, Vol. 6, Nọ 3 (1931) trang 715-749.
Dusun
(tiếng Mã Lai/Inđô) > 路孫
lộ *tôn (đọc gần như lô sun) =
làng, vườn trái cây (village, orchard/A)
Lada
> 那答
na *đáp
> nada = tiêu (pepper/A)
Undur
> 温冬
ôn đông - âm dur đã trở thành dông
(so với -dor trong condor > lôn).
= rút lui, về nghỉ (withdraw,
retire/A)
Hampir > 安並 an *tịnh (tịnh đọc gần như binh > *an bing - vần cuối
-ir trở thành –ing) = gần (near/A) …v.v…
Vào TK 17, một số tên ngoại quốc trong
Kinh Thánh
(Sấm truyền ca, Genesis) khi phiên ra âm Nôm cũng cho thấy khuynh hướng đổi -r
thành -n như (a) Asher (con thứ hai
của Jacob, tiếng Do Thái אָשֵׁר 'Āšēr) thì đọc là Ái-xang (b) địa danh Shur
(hay Sur, trên giao lộ giữa nước Ai Cập cổ và Canaan) thì đọc là Xuyên (c) Eber (tiếng Do Thái עֵבֶר Ḗḇer)
là con của Shelah, thì đọc là Hi-bân hay Hiền-bằng …v.v..
C1. Xem phim tài liệu - Chữ quốc ngữ theo dòng thời gian - VTV1
thực hiện (15/8/2021): vào phút
28:38 GS Đoàn Thiện Thuật
phát âm là thành nà... C2. Ở một địa
phương khác, như xem Người Quảng Ninh Vlogs chẳng hạn, lẫn lộn n và l thường gặp
hơn.

C1. https://www.youtube.com/watch?v=4YtlIJlQ570
“Chữ quốc ngữ theo dòng thời gian”

VTV1 (15/8/2021)
C2. Người Quảng Ninh Vlogs (16/8/2021)
Nguyễn
Cung Thông