1. Phanxicôxaviê HÀ TRỌNG MẬU, Thày giảng dòng Đaminh (1790-1839)
2. Đaminh BÙI VĂN ÚY, Thày giảng dòng Đaminh (1812-1839)
3. Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI, Nông dân dòng Đaminh (1806-1839)
4. Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ, Thợ may dòng Ba Đaminh (1811-1838)
5. Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH, Tá điền, dòng Ba Đaminh (1813-1839)
Đọc truyện các thánh tử đạo Việt Nam, không ai có thể quên được chứng tá tập thể của hai thày giảng và ba giáo dân ở trong tù. Năm vị cùng bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh, nhưng hai vị này tử đạo trước (05-09-1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm soát gắt gao, năm vị đã gắn bó với nhau trong tình anh em thân thiết, cùng sống đức tin kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa, bằng lời nói, gương sáng và chính mạng sống mình.
Thày Phanxicô Xaviê Mậu không những phải chọn lựa giữa cái chết và cuộc sống, thày còn phải chọn lựa giữa cái chết và việc làm quan triều đình. Không một chút lưỡng lự, thày trả lời vị tổng đốc: "Tôi không ham chức quyền tôi chỉ muốn chết vì đạo".
Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu cất tiếng chào đời năm 1740 tại làng Kẻ Diền, tỉnh Thái Bình. Cậu được cha mẹ cho đi tu, trở thành thày giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị bắt, thày Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt, được tin cha và thày uý được đưa về Lương Tài, thày Mậu đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gởi thày ở trọ một nhà lương dân bên kia sông vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ chính người chủ nhà đi báo cho quan kiếm tiền thưởng, thế là thày bị bắt.
Thày bị dẫn đến dinh quan Lương Tài, có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thày là ai thày đáp: "Thưa quan tôi là một môn đệ thân tín của cha đây". Cha Tự ra dấu nhắc cha đừng khai rõ, may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thày nói nhỏ với cha: "Xin cha thương nhận con làm môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha ."
Kể từ ngày ông Trùm và ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thày Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người còn sót lại, là thày Úy, các anh Mới, Vinh, Đệ. Thày nhắc anh em sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ nhau. Thày đại diện anh em viết thư ra ngoài, hoặc trả lời các quan. Đặc biệt thày động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn dựa vào các thơ của thày làm chứng rằng: "Thày Mậu vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được 44 người, trong đó có một tử tội tên Hưng, mới học đạo một tháng thì bị xử, anh xin quan hoãn lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường."
Khi quan nói: "Kẻ nào chết vì không bước qua Thập Giá là ngu dại, không biết thương cha mẹ già". Thày giải thích: "Thưa quan cha mẹ sinh ra chúng tôi có ở trên đời cũng là nhờ quyền năng Chúa". Khi quan quân tuyên đọc bản án xử tử, thày bình tĩnh đáp lại: "Thưa quan chúng tôi mong ước về với Chúa, như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của Đức Vua."
Tuy là một tân tòng mới theo đạo, anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém gì những kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn Văn Mới sinh năm 1806, tạt làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân ngoại giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày anh càng thấy mến đạo, và xin theo học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rửa tội và đặt tên thánh bổn mạng là Augustinô.
Mấy năm sau, cha Tự cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng không quên đọc kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 19.6,1838, khi quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc tòan dân phải ra đình điểm danh, rồi bước qua Thánh Giá. Một số tín hữu nhanh chân lẩn tránh được, một số nhát gan thực hiện yêu cầu các lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết không chịu đạp lên Thánh Giá, nên bị bắt và bị áp giải chung với cha tự, ông Trùm Cảnh và hai thày Uùy, Mậu, lên giam tại Bắc Ninh.
“Nếu tôi cả gan bước qua Thánh Giá thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết.”
Thầy Đaminh Úy đã đặt trọn niềm tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thày trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có cuộc bách hại hay khí vào thăm trong tù ? Nhưng rõ rệt là với thày, phản bội đức tin là phản bội lại những người đã nhọc công vun trồng niềm tin cho mình.
Đaminh Bùi Văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiên Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia đình gởi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thày giảng, thày luôn hoạt động bên cha tại xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh) thì bị bắt, lúc đó thày mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp thày Úy đều công nhận thày hiền lành có lòng yêu mến Chúa, đặc biệt là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thày là được đóng vai “Lê Lai thế mạng” để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn, thày đào hai ngăn rồi tình nguyện ở ngăn bên ngoài.
Thày nói với mọi người: “Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em”.
Ngày 29-06-1838, lính đến vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thày Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thày chỉ là giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thày nói: “Xin cha cứ nói con là thày giảng, may ra cũng được phúc tử đạo với cha”.
Rồi thày xin xưng tội để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế quan nói với ngài: “Cha Tự xuất giáo rồi sao anh còn cố chấp thế ?” Thày bình tĩnh trả lời: “Vô lý cha tôi không bao giờ làm như vậy, mà dù có thực thế tôi không bao giờ xuất giáo đâu”.
Lần khác quan như muốn dạy khôn thày: “Anh còn trẻ hãy nghĩ lại và khôn ngoan một chút, ta chỉ yêu cầu anh bước qua một khúc gỗ mà”. Thày Úy đáp: “Đúng là khúc gỗ thưa quan, nhưng khúc gỗ đó tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi đạp lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi ?”.
Hôm khác khi bị dụ dỗ bước qua Thánh Giá, thày khẳng khái nói: “Thưa quan có giám bước qua mặt Đức Vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi được?”.
Quan nghiêm nghị phán: “Tên phạm thượng ta sẽ chém đầu mi”. Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo lên: “Anh em ơi, tôi sắp được chém đầu rồi”. Nhưng phúc trường sinh đến với thày không quá mau như vậy.
Hai mươi tám tuổi đời, một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trăn trở của anh Tôma Đệ trong những ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn con dại sẽ ra sao ?. Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin Chúa soi sáng.
Cuối cùng anh tìm được an bình trong tâm hồn, phó thác tất cả trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm: "Đừng khóc mình ạ! Mình hãy về dãy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi được thêm sức mạnh để nhẫn lại đến cùng".
Ra đời trong một gia đình Công Giáo tại làng Bồ Tràng, tỉnh Thái Bình năm 1811, Tôma Nguyễn Văn Đệ vì lý do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh), và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề thợ may và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với công việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định, anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1830, quân lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên Thánh Giá, anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh biết mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại, ôm hôn từng đứa, rồi ra trình diện. Đến trước Thánh Giá, anh Đệ quỳ xuống cầu nguyện lớn rằng "Lạy Chúa! sẽ không bao giờ con bước qua mặt Ngài".
Quân lính áp giải anh Tôma Đệ cùng với cha Tự, ông Trùm Cảnh, hai thày Úy, Mậu và anh Mới, Vinh về giam tại Bắc Ninh.
Thánh Stêphanô Vinh là một trường hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo Việt Nam. Khi bị bắt, anh mới chỉ là dự tòng chưa được rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo, anh đã kiên trì làm chứng cho chân lý. Mặc dù khi vào tù anh mới chính thức gia nhập đạo, rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về lòng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình. Sống trong một gia đình ngoại giáo rất nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê làm mướn cho các gia đình ở Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích và theo được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc biệt anh đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc sống. Có điều là người ta không biết vì sao anh chưa được rửa tội. mọi người đều mến thương anh vì anh đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công việc, anh không bao giờ làm cho qua lần chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không cần kiểm soát, không có gì chê trách. Cho đến khi bị bắt, anh vẫn độc thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1839, khi quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp lên Thánh Giá, chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh dũng nói thẳng với họ rằng: “Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh Giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật”.
Vì lời này, quan quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông Trùm Cảnh, thày Uùy, thày Mậu, và hai anh Mới, Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh là con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng, nhưng cùng lập trường với các vị khác. Gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần nào có thể làm anh sa ngã hay nản chí. Chọn quan thày Stêphanô trong tù, anh cương quyết noi theo vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội đến hơi thở cuối cùng.