HIỆP SỐNG TIN MỪNG CN LỄ NGÀY PHỤC SINH ABC (Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9)
I.
HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất
trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá
lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn
đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng
tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra
mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới
mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không
vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy
những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng
vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã
tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai
ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi
chết.
2. Ý CHÍNH :
Gio-an viết Tin Mừng nhằm
mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên
Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn
Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại
như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1 : + Ngày
Thứ Nhất trong tuần : Theo
Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát
và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra
vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng
sớm… lúc trời còn tối : Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm
mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết : “Sáng
sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu
viết : “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt
28,1); So với Mác-cô : “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt
trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết : “Ngày Thứ Nhất trong
tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la : Mác-đa-la
là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà
Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là
một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc
24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã
chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2 : + Bà
liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô : Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc
biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần
phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và
người môn đệ thương mến : Cách nói “môn đệ được thương mến”
là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một
cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã
đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết : Khi thấy mồ
trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người
đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang
xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ
Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4 : + Ông
Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ : Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và
xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra
mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm
trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã
tới mộ trước : Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước
Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô,
và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6 : +
Băng vải còn ở đó : Đây
là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn
được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. +
Nhưng không vào : Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng
và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm
thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm
khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. +
Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ : Phê-rô tính nóng nảy nên
lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9 : + Và khăn
che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra
một nơi : Bên
trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi
sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn
(x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi
dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo
gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an
thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và
thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một
chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin : Dấu
chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy
luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước
đó hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi
chết : Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông
đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x.
Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn
vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại
những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự
sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI :
1) Tại sao ngày nay người
ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a
Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác
nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà
đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và
Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ?
6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách
nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại
sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy
hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì
về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : Ông đã thấy
và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN :
1) MỘT CUỘC CHẠY
MA-RA-THON :
Hàng năm, báo chí cũng như
truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy
ma-ra-thon. Vậy chạy ma-ra-thon là gì ? Tôi xin thưa đó là chạy đua
đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy là
thế này : Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Mil-ti-a-de, người Hy Lạp, đã
chiến thắng quân Ba Tư tại Ma-ra-thon, một ngôi làng cách thủ đô A-thène 40 câu
số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Mil-ti-a-de đã phái một người chạy bộ,
vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp.
Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì
thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế
giới.
Tin mừng Chúa Nhật Phục
Sinh hôm nay cũng tường thuật hai cuộc chạy ma-ra-thon : Cuộc chạy thứ
nhất là của cô Ma-ri-a Ma-đa-le-na báo tin cho các môn đệ xác Thầy đã biến mất.
Cuộc chạy thứ hai là của hai môn đệ Phê-rô và Gio-an đi ra mộ để kiểm tra thực
hư. Những người này đã đi tìm Chúa và sau đó đã đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh
cho mọi người.
2) ĐẰNG SAU SỰ KIỆN NGÔI MỘ
TRỐNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
Đầu tháng 3/2007, kênh
truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ
Thất Lạc của Chúa Giê-su”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở
khu Tal-pi-ot, phía đông Giê-ru-sa-lem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật,
trong đó có một hộp khắc tên Giê-su con ông Giu-se. Phải chăng đoàn làm phim đã
kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người Giê-su thành Na-da-rét ? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm
tin vào Đấng Phục Sinh ?
Các chuyên gia khảo cổ Do
thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ
nhất mang tên Giê-su; mười bốn phần trăm mang tên Giu-se. Đây không phải là lần
đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này
xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Giê-su con ông Giu-se được khai quật
từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giê-su chỉ là giả tưởng.
Như vậy chúng ta có thể đi
đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống
để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta
phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể
được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng
minh cho việc phục sinh của Chúa. Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng
rằng : đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của
một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim
đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối
nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy
mình đã sống lại và vẫn đang sống.
3) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN
MỪNG PHỤC SINH :
Sau khi chịu chết trên thập
giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và
cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn
và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng :
“Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra
?” Người đáp : “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp : “Có phải tất cả con
cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội
lỗi của họ không ?” Chúa trả lời : “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người
nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói : “Thế thì Chúa đã làm gì để họ
nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp : “Ta lại đi loan báo Tin
Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được
nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của
loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp : “Giả như Phê-rô, Gio-an và các
Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ
sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán
nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa
thôi ?” Chúa Giê-su trả lời : “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương
trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường
nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho
họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được
sứ mệnh đó”.
4) MẦU NHIỆM PHỤC SINH DIỄN TẢ TÌNH
THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA :
Tại một nghĩa trang bên
Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương,
bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó
là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta
xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà
vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi : “Đây là ngôi mộ sẽ
không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ
xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi
mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm
xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây diễn tả
tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi cho Đức Ki-tô sống lại từ
cõi chết để mở ra cho con người lối đi vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người
có thể chối bỏ và khước từ tình thương của Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế khôn
lường, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể
lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng qua một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn
tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống.
Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là cho con người được sống đời đời.
Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, Ngài vẫn luôn theo
duổi và chờ đợi con người đáp lại tình thương của Ngài để được sống mãi với
Ngài.
5) GƯƠNG CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG
ĐỨC TIN :
Một câu chuyện rất cảm động
đã xảy ra hồi thế chiến thứ hai tại Liên xô.
Một người đàn bà bị bắt làm
tù nhân trong một trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu chuyện mà bà đã
mắt thấy tai nghe, để mọi người tin vào sức mạnh của mầu nhiệm phục sinh của
Chúa.
“Một buổi chiều kia, một cô
gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ :
- Chị biết hôm nay là ngày
gì không?
Rồi không đợi tôi trả lời,
cô ta nói tiếp :
- Hôm nay là ngày lễ Phục
sinh.
Nghe thế tôi tự hỏi :
- Lễ Phục sinh đã đến rồi
sao? Tuy là lễ của niềm vui và hy vọng, nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi
đã bị héo úa, khô cằn. Còn niềm hy vọng thì tôi đành để trong
lòng chứ không
dám nghĩ tiếp.
Bỗng một tiếng reo vang nổi
lên phá tan bầu không khí nặng nề :
- Đức Ki-tô đã sống
lại !
Tôi quay lại nhìn mặt cô
gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh
huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả
lời :
- Ngài đã sống lại thật.
Quá sửng sốt, các nhân viên
trại giam đứng bất động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên
án một việc chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng
giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa ra,
hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái
lôi sền sệt ra khỏi phòng.
Qua tuần lễ Phục sinh, họ
giam riêng cô vào phòng không lò sưởi để nhờ cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ, thì con
người cuồng tín này sẽ phải gục ngã.
Một tuần sau, cô gái
được trả lại phòng giam với chúng tôi như trước. Mặt cô xanh xao, người cô gầy đi thấy rõ.
Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào :
- Dù sao tôi cũng đã tuyên
xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam.
Còn những điều khác
không quan trọng !
Nói xong, cô cố gắng mỉm
cười và tôi thấy trong mắt cô vẫn sáng lên
như trước”.
3. SUY NIỆM :
Bằng lối văn súc tích và
hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức
tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay
như sau :
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÔI THÚC
MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA :
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu
bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng sớm tinh
sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị
lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến mà bà đã thêm
can đảm để đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng
kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì sáng sớm hôm nay lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ
để ướp thêm thuốc thơm cho xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc
16,2). Khi thấy mộ trống không, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai
môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà thì ai đó đã đến lấy trộm xác
Thầy và bà không biết họ đã để xác Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề
nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang
về chôn vào trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi
trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a quay lại mồ để tiếp tục than
khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa
Phục Sinh hiện ra. Người trao cho bà sứ mệnh như sau : “Hãy đi gặp anh em
Thầy và bảo họ rằng : Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em,
lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN
NHẬN RA CHÚA TRƯỚC ANH EM :
Gio-an là một trong bốn môn
đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng
kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất
(x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc, làm cho ông trở thành người
can đảm hơn các anh em như sau : Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự
kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời;
Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và
được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ mình và đón Mẹ về nhà mình mà
phụng dưỡng thay Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở
thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển
hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy
nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước ông
này (x Ga 20,8). Sau cùng
chính lòng mến đã khiến Gio-an viết Tin Mừng Thứ Tư, trong đó đề cao giới
răn yêu thương. Tương truyền khi về già, mỗi lần rao giảng Tông đồ Gio-an
đều giảng về đề tài yêu thương. Khi có người thắc mắc lý do thì Gio-an
đã trả lời rằng : Chỉ việc tuân giữ giới răn yêu thương là đủ. Vì
“yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10b).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC
THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN :
Phê-rô là một trong bốn môn
đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi
sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu
danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chiêm ngưỡng Thầy
biến hình trên núi cao (x Mt 17,1); Được chứng kiến phép lạ Người phục sinh bé
gái mới chết (x Lc 8,51); Được ở gần Đức Giê-su khi Người lo buồn trong
vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin
Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành
Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin
“Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó,
Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng
đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi
cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin
cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm
như : bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận đường
thập giá (x Mt 16,22-23); Hoặc có lúc bị Thầy trách là kém
lòng tin (x Mt 14,31) hoặc trách khi không muốn Thầy rửa chân (x
Ga 13,6-8); trách khi quá tự tin vào sức mình
(x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù được Thầy cảnh báo
trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi
người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá
để theo Thầy làm nghề chài lưới bắt các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường
được Đức Giê-su hỏi ý kiến như : Có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt
17,24-27). Số
lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên
xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ
ra can đảm khi rút gươm chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga
18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử
Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy
bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ
trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã thực sự sống
lại chứ không bị lấy trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được
Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được
Gio-an quả quyết người mặc áo trắng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô đã vội
khoác áo vào nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ để gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông
cũng ba lần tuyên xưng yêu mến Thầy và đã được
Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên là Hội
Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến đích thật khi
sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ
LÒNG MẾN :
Chính lòng mến Chúa đã làm
cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ trước tiên
và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho
các môn đệ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy
trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Phục Sinh. Lòng
mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để
theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau
sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh trở
thành Đá
Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và sứ mệnh chăn
dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng
ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp
đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống của chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ
trống rỗng : khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những
người thân yêu nhất không còn. Bấy giờ chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người
chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã
không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng
lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan
báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN :
1) Nơi Đức Giê-su sự sống
đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin
rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau
cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không ? 2) Khi gặp
phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản
thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp
bạn được mau trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.
Sự phục sinh của Chúa vừa mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên
để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần
gian… hầu noi gương các thánh : sẵn sàng hy sinh tất cả vì yêu Chúa và dám
sống chết cho tình yêu, để dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng
đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng : “Chính khi hiến
thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính
khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
LM
ĐAN VINH - HHTM