Hỏi: Gần đây, có ý kiến cho rằng Tội Tổ Tông là điều không đúng và hợp lý xét về mặt tâm lý, công lý và khoa học. Xin cha cho biết ý kiến về quan điểm này.

Trả lời:
Trước hết, chúng ta cần minh định điều này : khoa hoc và tôn giáo
là hai lãnh vực hoàn toàn khác biệt nhau về mục đích cũng như phương pháp. Chân
lý của khoa học không phải là chân lý của bất cứ tôn giáo nào, nhất là
KitôGiáo. Chân lý của khoa học có thể và phải được kiểm chứng (verify) bằng
phương pháp và phương tiện khoa học, trong khi chân lý của Kitô Giáo chỉ được
giải thích và giữ vững bằng đức tin (faith) mà thôi. Vì thế, không thể dùng
khoa học làm nền tảng hay phương pháp để kiểm chứng bất kỳ khía cạnh nào của
niềm tin Kitô Giáo, đặc biệt là Kinh Thánh.
Đây là điều kiện tiên quyết phải chấp nhận và tôn trọng trước khi
đi vào bất cứ vấn đề tranh cãi (controversial) nào liên quan đến khoa học và
Kitô Giáo.
Từ căn bản trên, chúng ta có thể khẳng định ngay rằng vấn đề Tội
Tổ Tông (Original sin) trong niềm tin của Giáo Hội Công Giáo không dính dáng gì
đến chân lý hay khám phá nào của khoa học. Vây, ai nói rằng “quan niệm về tội
tổ tông” không phù hợp với khám phá của khoa học là điều không công bằng và hợp
lý nếu không muốn nói là ngớ ngẩn vì lý do vừa nói trên đây.
Mặt khác, đã gọi là đức tin thì không thể giải thích hợp lý bằng
luận lý (logics) hay phương pháp của bất cứ khoa học nhân văn nào. Cụ thể, nếu
dựa vào luận lý và khoa học, thì Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi (Mystery of the Holy
Trinity) là điều nghịch lý to lớn nhất, vì không ai có thể cắt nghĩa hợp lý
được sự kiện có Ba Ngôi vị riêng biệt nhưng cùng Một Thiên Chúa duy nhất, đồng
bản thể (consubstantial) và uy quyền như nhau . Cũng vậy, sự kiện Chúa Giêsu
được thụ thai ngoài kết quả phối hợp giữa người nam và người nữ cũng như sự
kiện Đức Trinh Nữ Maria đã sinh con mà vẫn còn trọn đời đồng trinh (ever
virgin) là những điều hoàn toàn trái ngược với mọi luật tư nhiên về sinh sản và
là điều không khoa học nào của con người có thể hiểu và chấp nhận được.
Những đây lại là những tín điều mà người Công Giáo phải tin cho
được rỗi linh hồn. Nghĩa là không ai trong Giáo Hội được phép dựa vào bất cứ
khoa học hay luận lý nào của con người để phi bác hay thách đố (challenge)
những tín điều này được , vì nếu làm như vậy sẽ trở thành lạc giáo (heresy) hay
bội giáo (apostasy).
Do đó, để sống đức tin Kitô Giáo cách vững chắc, người Công Giáo
phải tuyệt đối vâng phục và thi hành không thắc mắc những điều Giáo Hội dạy
không sai lầm ( infallibly) với quyền Giáo Huấn (Magisterium = Teaching Office)
trong các lãnh vực tín lý (dogma), giáo lý (doctrine) luân lý (moral) và Kinh
Thánh (Sacred Scripture).Ai không chấp nhận vâng phục Quyền Giáo Huấn của Giáo
Hội thì không thể sống đức tin KitôGiáo cách tinh tuyền và vững mạnh được.
Cụ thể, khi nói về Kinh Thánh, chúng ta phải chấp nhận không tranh
cãi là Kinh Thánh không phải là cuốn sách lịch sử ghi lại những sự kiện khách
quan đã thực sự xẩy ra trong không gian và thời gian nào đó. Các tác giả kinh
thánh không phải là những sử gia chuyên ngành, tức những học giả đã được đào
tạo về khoa sử học để giải thích cách khách quan cho hậu thế những biến cố lịch
sử (historical events) đã xảy ra trong quá khứ. Ngược lại, các tác giả kinh
thánh chỉ là những công cụ loài người (human instruments) trong khi Chúa Thánh
Thần mới thực sự là tác giả Kinh Thánh. Cho nên, những điều họ viết ra hoàn
toàn liên quan đến những gì Chúa Thánh Thần đã linh ứng (inspired) cho họ viết
để loan truyền LỜI CHÚA (DEI VERBUM) cho con người mà thôi.Vì thế, chúng ta
không đọc kinh thánh như đọc một cuốn lịch sử để biết về một số sự kiện đã thực
sự xảy ra trong quá khứ theo sự giải thích của sử gia, mà đọc để tìm hiểu Lời
Chúa được mặc khải qua những trình thuật hay nhân vật được đề cập trong Kinh
Thánh mà thôi. Đại Công Đồng Tridentinô ( Trent)(1537-1563) của Giáo Hội đã
đóng thư qui (canon) về Kinh Thánh với 46 tác phẩm Cựu Ước và 27 sách Tân Ước,
tổng cộng là 73 sách như chúng ta đọc thấy trong toàn bộ Kinh Thánh (Bible) của
Giáo Hội ngày nay. Nghĩa là chỉ có những Sách này được công nhận là có ơn linh
ứng (inspiration) và do đó được gọi là Sách Thánh vì có chứa Lời Chúa mà thôi.
Kinh Thánh đã nói rõ về tội Tổ Tông (Original Sin) nơi chương 3
trong Sách Sáng Thế ký (Genesis) qua trình thuật Eva và Adam đã ăn trái cấm và
bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Thánh Phaolô cũng xác nhận tội này như sau:
“Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần
gian,và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người,bởi
vì một
người đã phạm tội” (Rm 5:12)
Mặt khác, Giáo lý hiện hành của Giáo Hội cũng dạy rằng: TỘI NGUYÊN
TỔ LÀ MỘT CHÂN LÝ CHỦ YẾU CỦA ĐỨC TIN vì sự sa ngã của Adam có liên hệ mật
thiết đến Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại, mặc dù “câu
truyện sa ngã (St 3) sử dụng một thứ ngôn ngữ bóng bẩy, nhưng khẳng
định một biến cố hàng đầu, một sự kiện đã xẩy ra lúc khởi đầu lịch sử loài
người …..” (SGLGHCG, số 390, 37, 55, 379, 388-89)
Trên đây là những căn bản hướng dẫn đức tin mà người tín hữu chúng
ta phải theo để hiệp thông với Giáo Hội trong mục đích sống và loan truyền đức
tin KitôGíao trong mọi hoàn cảnh của thế giới cho đến ngày mãn thời gian.
Nếu không dựa vào căn bản trên của Kinh Thánh và Giáo lý của Giáo
Hội thì người tín hữu dựa vào đâu để tin rằng “Nhờ phép rửa tội, tất cả mọi
tội lỗi đều được tha, tội nguyên tổ và tội của bản thân
mình .”? (Sđd, số 1263).
Nói khác đi, nếu sự kiện “tội nguyên tổ” đáng nghi ngờ, hay không
hợp lý theo khoa học, tâm lý học, công bình học (không thể quýt làm, bắt cam
chịu tội) thì Giáo Hội dựa vào đâu để dạy tín hữu về hậu quả của tội lỗi và sự
cần thiết phải lãnh nhận bí tích rửa tội để được cứu rỗi như Chúa Giêsu đã
truyền dạy ? (cf.Mt 28 : 19; Mc 16:16; Ga 3:5).
Như vậy, toàn bộ căn bản tín lý thần học của Giáo Hội về nguồn gốc
của tội và nhất là về công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô sẽ xụp đổ hết vì hai
sự kiện này có liên hệ mặt thiết với nhau. Chúa Giêsu xuống thế và chết trên
thập giá vì Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho con người nhưng cũng vì tội lỗi
của con người nữa chứ? Vậy tội ở đâu mà ra?
Tuy tác giả Sáng Thế Ký dùng “ngôn ngữ bóng bẩy” trong trình thuật
về sự sa ngã của Adam và Eva, nhưng Giáo Hội khẳng định đó là “một biến cố
hàng đầu đã xảy ra lúc khởi đầu lịch sử loài người”. Nghĩa là
có sự kiện con người phạm tội, và “tội lỗi đã xâm nhập trần gian”
như Thánh Phaolô đã dạy. Và cũng chính vì tội lỗi này của con người mà Chúa
Giêsu đã xuống trần gian để " hiến mạng sống mình làm giá chuộc
cho muôn người". ( Mt 20: 28) ) như Giáo Hội tin và dạy con cái mình
cho đến nay.
Như thế bao lâu Giáo Hội chưa chính thức đưa ra một giáo lý nào
khác về nguyên nhân và hậu quả của tội con người phạm lúc ban đầu, thì không ai
trong Giáo Hội được phép đưa ra những nhận định hay giả thuyết gây hoang mang
cho tín hữu về giáo lý này.Chỉ có những người không chia sẻ niềm tin của Giáo
Hội mới “chế riễu” hay đả kích Giáo Hội về Kinh Thánh và những giáo lý đang
được giảng dạy và thực hành mà thôi.
Tuy nhiên, dù cho người ta có muốn cắt nghĩa cách nào về tội
nguyên tổ và hậu quả di truyền của nó, trái với điều Công Đồng Tridentinô đã
dạy về sự " di truyền của Tội Nguyên Tổ" ( cf. Denzinger 1513), thì
người ta cũng không thể phủ nhận được sự kiện là trong bản tính nhân loại ngày
nay, vẫn hiển nhiên có khuynh hướng nghiêng chiều về sự dữ, sự tội, dù có nhìn
nhận đó là hậu quả của tội nguyên tổ hay không. Nói rõ hơn, dù ai muốn lý luận
theo tâm lý hay công bình là "không thể bắt cam chịu hậu quả của việc quýt
làm." để chối bỏ sự kiện tội Nguyên Tổ di hại đến toàn thể nhân loại, thì vẫn
không thể giải thích hợp lý được tại sao bản tính con người thuộc mọi chủng tộc
và văn hóa ở khắp mọi nơi đều bị "vong thân"- nói theo triết học, hay
"suy thoái" (deteriorated) trầm trọng khiến con người khó chống trả
được những cám dỗ, những khuynh hướng nghiêng chiều về sự xấu, sự dữ, sự tội
đang tồn tại trong nhân tính để cho con người phải chiến đấu chống lại chúng,
nếu muốn đứng vững trong sự thiện, sự công chính và sự lành để qui hướng về
Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ tuyệt đối.
Và đây mới là điều đáng phải suy nghĩ liên quan
đến khát vọng muốn được cứu rỗi để vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, nếu con
người thực tâm tin có Thiên Chúa và hạnh phúc Người hứa ban.
Thật vậy,vấn đề gay go nhất đặt ra cho con người không phải là tìm
kiếm sự hợp lý về việc một người phạm tội khiến cả loài người phải chịu chung
hậu quả tai hại. Ngược lại, vấn đề mà mọi người sinh ra trong trần gian này đều
nhìn nhận và phải đối phó: đó là mọi người đều mang trong mình " những dục
vọng của thân xác", đối nghịch hoàn toàn với khát vọng hướng thượng của
tâm hồn và lý trí, khiến mọi người cùng phải thú nhận như Thánh Phaolô là
" ..Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi
cứ làm" Rm 7: 15).
Đó là một cuộc chiến gay go kéo dài trong nội tâm của mỗi người
chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng. không ai có thể thoát được nguy cơ của cuộc
chiến trong nội tâm này giữa sự thiện và sự ác, giữa sự trong sạch, thánh thiện
và dục vọng dâm ô nhơ uế, giữa công bằng và gian tham đưa đến bất công bóc lột,
giữa lòng nhân ái và độc ác đang xô nhanh con người vào hố tội ác xâu thẳm, như
con giết cha mẹ , vợ chồng , anh em giết nhau vì miếng ăn, vì chút quyền lợi
nhỏ bé. Đó là thực trạng chung và riêng của một xã hội đang phỉ nhổ vào mọi giá
trị tinh thần, ý thức luân lý và đạo đức, là những tiêu chuẩn để phân biệt xã
hội loài người có lý trí với bầy thú dữ sống với bản năng trong rừng hoang và
sinh tồn nhờ mạnh được yếu thua...Do Đó, vấn đề đặt ra cho con người phải suy
nghĩ và chọn lựa là : hoặc tin chắc có Thiên Chúa để quyết tâm sống theo đường
lối của Người là yêu mến sự thiện, sự lành, thực thi bác ái, yêu thương theo
gương Chúa Kitô đã yêu thương, tha thứ và cầu nguyện cho cả những kẻ đã đánh
đạp và đống đinh Người.( Lc 23: 34) ).Hoặc chối bỏ Thiên Chúa để sống theo dục
vọng, theo bản năng yếu đuối do hậu quả của Tội Nguyên Tổ, theo "văn hóa
sự chết" dẫn đưa đến hư mất đời đời.
Như vậy, dù tin có Tội Nguyên Tổ hay không thì con người vẫn không
thay đổi gì được thực trạng bản chất yếu đuối của mình và vẫn phải đương đầu
với cuộc chiến nội tâm nói trên để từ đó, số phận đời đời của mình sẽ được
quyết định.
Nếu tin có tội nguyên tổ và hậu quả di truyền của tội này, thì con
người cần được tái sinh qua Phép Rửa để bắt đầu một đời sống mới theo thần khí
nhờ ơn sủng cứu độ của Chúa Kitô. Nhưng phép rửa mới chỉ là bước đầu cần thiết
cho một tiến trình biến đổi thiêng liêng (spiritual conversion) hầu trở nên
hoàn hảo, nên giống Chúa Kitô và cuối cùng được cứu độ để được sống hạnh phúc
đời đời với Thiên Chúa trên Nước Trời mai sau.
Tuy nhiên, Phép rửa không trả lại cho con người bản chất tốt lành
nguyên thủy (original innocence) mà tội nguyên tổ đã phá hủy, cho nên “nơi người đã được rửa tội , một số những hậu quả của tội vẫn tồn
tại, như những đau khổ , bệnh tật, sự chết hoặc những yếu đuối gắn liền với sự
sống như yếu đuối về tình tình , nhất là sự hướng chiều về về tội lỗi mà truyền
thống gọi là nhục dục, hay nói cách bỏng bẩy là “lò phát sinh tội lỗi” (formes
percati) còn để lại cho ta phải chiến đấu với nó….. .”(SGLGHCG số 1264).
Đây là thực trạng con người phải đương đầu dù có tin giáo lý và
kinh thánh nói về tội tổ tông hay không.
Chính vì thực trạng này mà nếu con người không nỗ lực cộng tác với
ơn Chúa để chiến thắng khuynh hướng tội lỗi nói trên thì rửa tội rồi cũng vô
ích mà thôi, dù cho người ta có nhìn nhận tội nguyên tổ hay không muốn gánh
chịu luật bất công “quýt làm cam chịu” theo lý giải của một vài người tự cho là
văn minh tiến bộ ngày nay. Xin nhấn mạnh thêm một lần nữa, dù người ta có chối
bỏ sự kiện về tội nguyên tổ và hậu quả di truyền bất công của tội này đi nữa,
thì vẫn không giải quyết gì được về thực trạng yếu đuối muốn nghiêng chiều về
sự dữ, sự tội trong bản tính con người ngày nay. Muốn cải thiện hay chiến thắng
"khuynh hướng" nghiêng chiều về sự dữ, sự tội này, con người phải cẩn
ơn Chúa phù giúp với thiện chí công tác của cá nhân vào ơn thánh rất cần thiết
này.
Phải chăng chính vì thực trạng này mà Chúa Giêsu đã mở đầu cho
việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Người bằng lời kêu gọi sau đây:
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” ( Mc 1:15) Chúa kêu gọi sám hối vì biết con người không tránh
được tội lỗi khi mang bản chất yếu đuối với khuynh hướng nghiêng chiều về sự
xấu , sự dữ nhiều hơn là về sự thiện, sự tốt lành. Thêm vào đó là nguy cơ cám
dỗ của ma quỉ “thù địch của anh em như
sư tử gầm thét rảo quanh tìm mối cắn
xé” mà Thánh Phêrô đã cảnh cáo.( 1 Pr 5:8).
Như vậy, bao lâu còn sống trên trần thế và trong thân xác có ngày
phải chết này, con người còn phải chiến đấu không ngừng với ơn Chúa phù giúp để
chiến thắng mọi mưu chước của ma quỉ luôn khai thác triệt để bản chất yếu đuối
của con người hầu đẩy con người ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Cho nên, muốn
được hưởng" những gì quí báu và trọng đại mà Thiên Chúa hứa ban,
để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoải khỏi
cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này.."( 2 Pr 1 : 4).
Nghĩa là toàn thắng Nghĩa mọi nguy cơ của tội lỗi vì bản chất yếu đuối, vì cảm
dỗ của ma quỉ và vì gương xấu của thế gian.
Tóm lại, có nhìn nhận tội nguyên tổ và hậu quả di truyền của nó
hay không, chưa phải là vấn đề then chốt cần tranh luận để tìm công lý và hợp
lý liên quan nguồn gốc của tội.Vấn đề quan trọng mà con người phải đương đầu là
thực trạng yếu đuối trong bản chất của mình với khuynh hướng nghiêng chiều về
tội lỗi và mọi sự dữ, khiến quá nhiều người đã và đang làm những sự dữ như giết
người, ham mê tiền của, dâm ô sa đọa, hận thù ,nghen nghét, bất công, ích kỷ và
dửng dưng trước sự đau khổ và nghèo đói của đồng loại.
Do đó, nếu con người không có thiện chí công tác với ơn cứu độ của
Chúa và quyết tâm chống lại mọi nguy cơ của tội lỗi để sống theo tinh thần của
Tin Mừng Cứu Độ cho đến cùng, thì phép rửa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của
Chúa Kitô sẽ không sinh ích gì cho ai hết. Và đây mới là vấn đề quan trọng đáng
quan tâm nhất cho mọi người tín hữu chúng ta.
Lm .Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn