· Cây
nho và rượu nho vào thời Chúa Giêsu
Vào thời La
Mã, cách trồng nho hầu như không có cải tiến gì đáng kể so với các thời đại trước.
Không nghi ngờ gì nữa, kích thước của các máy ép đã tăng dần lên kể từ thời
hoàng tộc Israel, nhưng ở vùng đất Do Thái không có dấu vết nào của các cơ sở nấu
rượu quan trọng, tương tự như khu phức hợp Byzantine được phát hiện tại Si'a ở
miền nam Syria, hiện đã được khôi phục.
Cách sản xuất
và phương thức bảo tồn rượu nho vẫn được giữ bí mật như trong các thời đại trước.
Bình đựng được cho là loại thường dùng để đựng rượu nho là bình Amphora, có đế
nhọn, dễ cắm chặt vào đất tơi xốp.
Tuy nhiên,
các sách Tin Mừng nói về bầu da chứa rượu nho, chỉ rõ rằng tuổi của da và tuổi
của chất rượu phải tương ứng với nhau để khỏi bị nứt ra do quá trình lên men “Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da
cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì
đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.” (Mt 9,17 và các câu tương ứng). Về
mùi vị thì khỏi nói, ai cũng thích rượu cũ vốn được ủ nhiều năm “Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu
mới. Vì người ta nói: "Rượu cũ ngon hơn.” (Lc 5,39).
Sở thích của
những người Do Thái giàu có đối với rượu ngoại cũng đã được khẳng định. Từ một vài
thế kỷ trước, ngoài những loại rượu đã được mang đến từ các quốc gia giáp phía
đông Địa Trung Hải, rượu vang cũng được nhập khẩu từ Ý, và chắc chắn được đánh
giá cao vì nồng độ cồn cao hơn của chúng. Các bình Amphorae vốn mang dấu ấn của
các nhà sản xuất, có tên gọi Latinh, thực sự được tìm thấy ở Giêrusalem, trong
một ngôi nhà từ thời Hêrôđê.
Trong những
gia đình bình dân, rượu dùng để uống trong những bữa ăn mừng lễ, nhưng khách lữ
hành có thể mang theo bên mình như người Samaritanô trong dụ ngôn “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết
thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình,
đưa về quán trọ mà săn sóc.” (Lc 10,34), vì rượu có nhiều công dụng khác
nhau. Nó có thể được sử dụng như một chất sát trùng - được đắp lên vết thương -
và được đánh giá cao về chất lượng bồi bổ của nó. Mọi người đều biết lời khuyên
khôn ngoan của Phaolô, dù không có tài liệu nào coi ngài là người sành rượu,
dành cho môn đồ Timôthê: “Từ nay anh đừng
chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu
luôn” (1Tm 5,23).
Vì tính chất
gây sảng khoái của rượu nho nên nó cũng được khuyến khích sử dụng để làm dịu cơn
đau thể chất, như trường hợp người Samaritanô nhân lành kể trên. Rượu trộn với mộc
dược cũng được dâng cho Chúa Giêsu vào thời điểm Ngài bị đóng đinh: “Chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng
Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống” (Mt 27: 34). Ngay cả Máccô khi nói
rằng Chúa Giêsu dù bị kết án tử hình đóng đinh vào thập giá nhưng Ngài từ chối dùng
rượu trộn với mộc dược đó, ông muốn nhấn mạnh một điều là Chúa Giêsu quyết tâm
đối mặt với cái chết không mất đi một chút năng lực nhận thức nào “Chúng trao rượu pha mộc dược cho Ngài, nhưng
Ngài không uống” (Mc 15,23). Sách Talmud ở Babylon cho chúng ta biết rằng
có những nhóm phụ nữ từ thiện ở Giêrusalem, đem rượu mạnh đến cho những người bị
kết án tử hình uống, “để làm tâm trí của
anh ta nên xáo trộn và do đó giảm thiểu sự đau khổ của anh ta vì nỗi sợ hãi về
cái chết sắp xảy đến.” Hay
như trong sách Châm ngôn viết: “Hãy đem
chất men cho kẻ đang hấp hối, và đem rượu cho người chịu đắng cay” (Châm
ngôn 31: 6).
· Tại
tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu biến nước thành rượu
Chuyện gì xảy
ra tại tiệc cưới Cana? Thánh sử Gioan cho biết tầm quan trọng của sự việc này,
trong phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu như thế nào? Một tiệc cưới kéo dài bao
lâu vào thời điểm đó? Chúa Giêsu đã biến bao nhiêu lít nước thành rượu?
Kinh thánh
cho biết Chúa Giêsu biến nước thành rượu như thế nào.
“Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền
Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng
được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Chúa Giêsu nói với Ngài: “Họ hết
rượu rồi.” Chúa Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của
tôi chưa đến.” Thân mẫu Ngài nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh cứ việc
làm theo.”
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc
thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc
một trăm hai mươi lít nước. Chúa Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum
đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem
cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã
hoá thành rượu, mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết,
ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách
đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến
bây giờ. Chúa Giêsu đã làm dấu lạ đầu
tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Ngài. Các môn đệ đã tin
vào Ngài.” (Gioan 2: 1-10).
· Một
dấu hiệu tinh tế thông báo một điều lớn lao
“Ngày thứ ba, có một Tiệc cưới tại Cana ở
Galilê”
Ba từ đầu
tiên của đoạn Kinh thánh ngắn gọn này – “Ngày
thứ ba” - chỉ được kể lại trong Tin Mừng của Gioan - tạo thành một trường hợp
ám chỉ nổi bật trong Kinh thánh. Trên thực tế, với một sự tinh tế bẩm sinh quen
thuộc của mình, Gioan lồng vào một dấu hiệu chỉ báo cho người đọc Kinh thánh biết:
sắp sửa xảy ra một điều gì đó.
Thành ngữ “ngày
thứ ba” là một cụm từ rất đặc biệt. Các nhà chú giải Kinh Thánh nói:
Trong truyền
thống Cựu Ước, dấu chỉ thời gian này xác định ngày Thiên Chúa tỏ mình ra trên
núi Xinai: Xh 19,11 “Và đến ngày kia phải
sẵn sàng, vì ngày kia Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xinai trước mắt toàn dân.”
Dấu hiệu thời gian nhỏ bé này lại là một thông báo về một théophanie - một cuộc thần hiện,
một cuộc hiển linh - nghĩa là sự hiện
ra của Thiên Chúa, hay việc Thiên Chúa hiển linh.
Trong truyền
thống Tân Ước, công thức “Ngày thứ ba”
đề cập đến ngày Phục Sinh (1Co 15: 4; Mt 16: 21; 17:23; 20,19; Lc 9: 22; 18:
33; 24:7-46). Vì vậy, dấu chỉ Cana được trình bày như một sự kiện mặc khải vinh
quang của Chúa Giêsu Kitô, vinh quang chỉ thuộc về Thiên Chúa: “Chúa Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại
Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Ngài” (Ga 2,11).
Một điều đặc
biệt xảy ra trong lễ cưới này, mà Chúa Giêsu, mẹ Ngài và các môn đệ “mới tuyển”
của Ngài được mời đến: phép lạ biến nước thành rượu.
· Một
bữa tiệc cần có thời gian
Cũng cần phải
biết các phong tục cổ xưa để hiểu rõ hơn các văn bản Kinh thánh. Trong văn hóa
Do Thái và Hy-La cổ đại, đám cưới kéo dài một tuần. Do đó, đây là một lễ mừng lớn
quy tụ một số lượng lớn khách mời.
Do đó, nhờ
thông tin này, chúng ta hiểu rõ hơn về lượng nước ấn tượng mà Chúa Giêsu đã biến
thành rượu.
Ở đó có sáu
chiếc bình bằng đá, dùng để thanh tẩy theo tục lệ người Do Thái, và mỗi chiếc
bình có dung tích bằng hai hoặc ba đơn vị đo lường. Vậy rượu mới được bao nhiêu
lít? Sau một vài chuyển đổi nho nhỏ về đơn vị, chúng ta có phép tính:
Thuật ngữ metrêtês
trong tiếng Hy Lạp chỉ một “đơn vị đo lường dung tích”, tương ứng với 39,39 lít. Trong trường hợp này,
một bình có thể chứa từ 2 đến 3 đơn vị đo lường. Có 6 bình.
Kết quả tính
được: số lượng tối thiểu thu được tương đương 472,68 lít trong khi số lượng tối
đa tương đương 709,02 lít.
Đây cũng là
một kỷ niệm nữa thêm vào những điều đáng nhớ dành riêng cho cô dâu và chú rể làng
Cana vào một khoảng thời gian tốt đẹp trong đời của họ!
· Khi
Chúa Giêsu ngồi vào bàn ăn
Câu chuyện về
một đám cưới, mà Chúa Giêsu đến với tư cách là khách để chia sẻ bữa ăn với
khách và cô dâu chú rể, gợi lên sự thánh thiêng của lễ cưới này. Trong Tin Mừng,
khi Chúa Giêsu ngồi vào bàn ăn, điều đó thường khá quan trọng.
Khi ăn uống
với những người tội lỗi và những người thu thuế, Chúa Giêsu không lo lắng gì về
danh tiếng của chính mình. Chúa Giêsu
cho thấy rằng Ngài mang ơn cứu độ và Tin mừng đến cho mọi người, đặc biệt là
cho những người tội lỗi và hoạn nạn “Thấy vậy, những người Pharisêu nói với các
môn đệ Ngài rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi
như vậy? Nghe thấy thế, Chúa Giêsu nói với họ: “Người khoẻ mạnh không cần
thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà
để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9: 11; Mc 2,16; Lc 5,29 ).
Trong bữa ăn
cuối cùng, “Bữa Tiệc Ly”, sau khi rửa chân, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em
đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có
nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh
em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Gioan 14: 1-3).
Lễ cưới và bữa
tiệc Cana này là một biểu hiện khác của điều này “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Chia sẻ bàn ăn có nghĩa là tham gia
vào sự hiệp thông và tạo ra mối dây liên kết. Sự hiện diện của Chúa Giêsu làm
cho bữa tiệc này trở nên thánh thiêng, vì chính Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển
chọn, như đã được Gioan Tẩy giả công bố trước khi tiệc cưới này diễn ra không
lâu: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ
câu từ trời xuống và ngự trên Ngài. Tôi đã không biết Ngài. Nhưng chính Đấng
sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống
và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi
đã thấy, nên xin chứng thực rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
(Gioan 1: 32 -34)
Bạn sẽ suy nghĩ
về điều này vào lần tới khi quy tụ với bạn bè trong một bữa tiệc chứ!
Chúa Giêsu đến
cư ngụ trong cuộc sống hàng ngày của kiếp người, làm cho một tiệc cưới trở nên thánh
thiêng. Ngài không chỉ làm cho lễ cưới của những ai mời Ngài tham dự nên thánh
thiêng, mà còn là cho cả cuộc sống hôn nhân của họ
thành một cuộc
hành trình tràn đầy ơn thánh vì có Ngài đồng hành, có sự hiện diện của Ngài giữ
gìn ngọn lửa yêu thương thắm nồng như men rượu, vốn không sớm thì muộn hoặc
không nhiều thì ít, sẽ trở nên nhạt nhẽo, lạt vị, thậm chí biến chất thành chua
cay đắng đót. Chính Chúa Giêsu đã thiết lập một cách thế để luôn luôn có thể biến
nước lã thành rượu nho ngon lành: bí tích hôn nhân.
Giáo Lý Giáo
Hội Công Giáo số 1613 viết:
“Khởi đầu đời sống công khai, Chúa Kitô thực
hiện dấu chỉ đầu tiên trong lễ cưới, theo lời yêu cầu của Mẹ Maria (Ga 2,1-11).
Hội Thánh coi việc Chúa Kitô hiện diện
trong tiệc cưới Cana có một tầm quan trọng đặc biệt. Hội Thánh nhìn sự kiện
này như Lời Chúa xác nhận hôn nhân là việc
tốt lành và công bố hôn nhân từ đây là dấu chỉ hữu hiệu về sự hiện diện của
Chúa Kitô.”
Giáo Lý Giáo
Hội Công Giáo số 1638 nhấn mạnh:
“Các đôi vợ chồng Kitô giáo được những ơn
riêng cho bậc sống của mình trong Dân Chúa" (LG 11). Ân sủng đặc biệt của bí tích Hôn Phối kiện toàn tình yêu vợ chồng, củng
cố sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ. Nhờ ân sủng này, “họ giúp nhau nên
thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái”(LG
11;LG 41).”
Có lẽ chúng
ta nên lưu ý một ý tưởng tạm gọi là “minh triết trong đời” gợi lên ý nghĩa của
món quà. Định nghĩa này sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa của cử chỉ mà Chúa Giêsu thực hiện
khi biến nước thành rượu.
Trao tặng một
thứ gì đó không chỉ là di chuyển nó từ nơi này sang một nơi khác, từ tay người
này sang tay một người khác, như một sự chuyển giao sở hữu.Nhưng là để biến đổi
món quà đó, kết hợp vào món quà đó một điều gì là chính con người của người
trao tặng. Quà tặng đích thực có giá trị không phải chỉ vì công năng sử dụng của
nó, cũng không phải chỉ vì giá trị trao đổi hàng hóa của nó – cụ thể tính bằng
tiền, như con người chúng ta thường hay có khuynh hướng thực dụng quy đổi rất
nhanh chóng - mà còn là, và nhất là, vì toàn bộ sự hiện hữu của người trao tặng:
công sức lao động, sự quan tâm chia sẻ, tình yêu thương ân cần chăm sóc, ước
mong người thân yêu của mình được vui tươi, yên lành, bình an và hạnh phúc.
Điều này thật
đúng trong câu chuyện Chúa Giêsu thực hiện dấu lạ đầu tiên trong sứ mạng công
khai của Ngài tại tiệc cưới Cana. Chúa Giêsu chắc chắn đã mong ước và chúc tất
cả những điều đó cho đôi vợ chồng mới thành hôn này! Nhưng Chúa Giêsu không chỉ
mong ước và cầu chúc bằng “môi miệng” như phần lớn phàm nhân chúng ta. Lưu ý
Gioan không nhắc đến một lời nào của Chúa Giêsu nói với đôi vợ chồng mới. Sự hiện
diện của Ngài tại tiệc cưới, dĩ nhiên theo lời mời của đôi vợ chồng mới, của
cha mẹ, của vị chủ hôn và của gia đình tổ chức lễ cưới cho họ, đã vượt quá xa
“niềm vinh hạnh cho gia đình chúng tôi”. Đây là điểm son của nhà đám này, họ
không chỉ mời “Thầy Giêsu” bắt đầu danh tiếng, mà còn cả “thân mẫu của Thầy”,
thậm chí mấy ông môn đệ “chân ướt chân ráo” của Thầy mà có lẽ họ đã biết thành
phần xuất thân của họ, không nhiều thì ít: “Chúa
Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự” (Gioan 2:2). Có lẽ nhà đám không
mong ước điều gì nơi sự có mặt của Thầy Giêsu và nhóm người của Ngài hơn là hai
chữ “vinh hạnh”, họ thực sự coi đó là vinh hạnh, với tất cả tấm lòng chân
thành. Cũng vậy chắc chắn vị chủ tiệc, vốn được giao cho việc tổ chức cắt đặt mọi
việc, biết rất rõ mình không “hòng kiếm được lợi lộc gì” từ vị Thầy và các học
trò của vị Thầy này ngoài sự vinh dự.
Chắc chắn
ông chủ tiệc này không thể hình dung ra một “sự cố tai tiếng to lón” sắp sửa xẩy
ra mà ông không hề dự tính hay dự cảm trong tâm trí mình. Ngay cả khi mọi “xui
rủi” đã được “xử lý thành công” lặng lẽ và êm thắm thì ông cũng chỉ nhận ra một
điều: đến giờ này mà rượu vẫn còn ngon quá! “Ông mới gọi tân lang lại, và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và
khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi
cho đến bây giờ” (Gioan 2:9-10). Một người quản lý nhà hàng như thế, giả
như trong thời đại hiện nay, liệu có nên được tin cậy nữa không, hay cần phải
“sa thải” ngay lập tức, vì không dự toán được nhu cầu thức uống đầy đủ cho thực
khách, lại không nắm được diễn tiến của bữa tiệc mà chủ nhà tin cậy giao cho
mình lo lắng quán xuyến…đi đâu, làm gì mà không biết gì hết vậy, hay là mải mê
cụng ly với các “chiến hữu” !? “Khi người
quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia
nhân đã múc nước thì biết” (Gioan 2: 9).
Gabriel
Marcel nói: “Món quà được tạo ra cho tôi, nếu nó thực sự là một món quà, không
chỉ được thêm vào một tài sản đã có từ trước. Nó có một chiều kích khác, bao la
và sâu xa hơn nhiều, đó là dấu chứng tình yêu Thiên Chúa dành cho tôi. Linh hồn
của món quà là sự hào sảng, rộng lượng, quảng đại…là một ánh sáng, thắp lên một
niềm vui bùng vỡ hoan hỉ.”
Đức Thánh
Cha Phanxicô nói trong bài huấn dụ buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật
20.01.2019:
“Không phải tình cờ mà khởi đầu cuộc đời công
khai của Chúa Giêsu lại được đặt trong bối cảnh của một lễ cưới, bởi vì qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã kết hôn với
nhân loại: đây là tin vui, ngay cả khi những người mời Chúa chưa biết rằng Con
Thiên Chúa đang ngồi cùng bàn với họ và Ngài là chàng rể đích thực. Trên thực
tế, tất cả mầu nhiệm về phép lạ ở Cana nằm ở sự hiện diện của Chúa Giêsu, chàng
rể thần linh, Đấng bắt đầu tỏ mình ra. Chúa
Giêsu tỏ mình ra như vị hôn phu của dân Thiên Chúa, đã được các ngôn sứ
loan báo và bày tỏ cho chúng ta sự sâu
thẳm của mối tương quan liên kết chúng ta với Ngài: đó là một Giao ước mới của
tình yêu.”
Vai trò quyết định của Mẹ Maria trong
phép lạ đầu tiên của Chúa, sự hiện diện
đáng nể.
Mẹ Maria hiện
diện trong cuộc đời công khai của Chúa Kitô thế nào? Mẹ phản ứng ra sao trước
những gì Chúa Giêsu trả lời Mẹ trong đám cưới Cana? Tại sao Chúa Giêsu không tự
mình làm phép lạ?
Trong phép lạ
đầu tiên của cuộc đời công khai của Chúa Kitô, có Mẹ Maria, Mẹ của Ngài. Và khi
xem xét kỹ hơn, đây là một tham số quan trọng. Bởi vì điều đó không thường
xuyên xuất hiện trong các trình thuật Tin Mừng.
Đây là một
tình tiết đáng chú ý về nhiều mặt: trong bốn sách Tin Mừng, Mẹ Maria được cả
Mátthêu, Luca và Gioan trích dẫn. Nhưng Mátthêu và Luca chỉ cho Mẹ xuất hiện
trong các câu chuyện về sự ra đời và thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Mẹ lu mờ dần
đi trong suốt cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Do đó, thật thú vị khi nhấn mạnh
rằng trong đoạn văn này, Gioan là người duy nhất nói đến sự hiện diện của Mẹ
Maria vào lúc khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
Trong Phúc
âm Gioan, Mẹ Maria xuất hiện vào hai thời điểm: tại đám cưới Cana này, nơi Mẹ được
mời cùng với Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài, và trong cuộc Khổ nạn, dưới
chân Thập giá “Đứng gần thập giá Chúa
Giêsu, có thân mẫu Ngài” (Ga 19,25).
Đây không phải
là yếu tố duy nhất làm cho trình thuật này trở nên độc đáo. Gioan là người duy
nhất lên tiếng về cuộc hôn nhân này. Không có sách Tin Mừng nào khác đề cập đến
phép lạ tại Cana. Mặt khác, Tin Mừng Gioan không kể về Bữa Tiệc Ly là bữa ăn cuối
cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ. Do đó, nhiều nhà chú giải đã coi bữa tiệc
cưới này vốn được chia sẻ giữa các khách mời với nhau bằng rượu là một hình ảnh
đại diện cho Bữa Tiệc Ly.
· Đôi
mắt tinh tường của Mẹ Maria
Họ không còn
rượu, vì rượu dùng cho tiệc cưới đã cạn. Một tiệc cưới kéo dài bảy ngày, mà
ngày nào cũng có khách đến chung vui, cho nên rượu là thứ không thể thiếu.Thế
mà hết rượu! Gioan không tìm hiểu lý do, không có một lời nào đổ lỗi cho đôi vợ
chồng mới, cho cha mẹ của chú rể hay của cô dâu, thậm chí cũng không nói gì đến
sự thiếu trách nhiệm của người quản tiệc. Người ta có thể phỏng đoán một cách hợp
lý rằng: khách khứa đến nhiều hơn mong đợi và vượt quá dự tính vào ngày hôm đó!
Sứ điệp trọng tâm của Gioan hoàn toàn không liên quan gì đến mấy chuyện “rượu
chè” đó. Gioan chỉ trình thuật:
“Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Chúa Giêsu nói
với Ngài: “Họ hết rượu rồi.” (Gioan 2: 3-5). Chính Mẹ Maria nhận thấy sự
thiếu sót và thông báo điều đó cho con trai mình.
Chúa Giêsu
đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và
tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Một câu trả lời có vẻ như của “kẻ xa lạ” cho một
người không quen, như kiểu muốn nói “bà và tôi có liên can gì với nhau đâu cơ
chứ?”, lại càng không thể là câu trả lời của Người Con mình “rứt ruột đẻ ra”!
Sứ điệp của
Gioan ở đây cũng không phải là chuyện cư xử lịch thiệp, lễ phép theo qui định
giao tế xã hội. Chuyện lớn lao hơn nhiều! “Giờ
của tôi chưa đến!” Ai ngạc nhiên chứ Mẹ Maria thì không, vì Mẹ đã từng trách
nhẹ Người Con ấy: “Con ơi, sao con lại xử
với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”
và Mẹ đã nghe Người Con của mình hỏi ngược lại mình “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của
Cha con sao?” và Mẹ “không hiểu lời
Ngài vừa nói” (Luca 2:49-50). Chuyện đã xẩy ra gần hai mươi năm trước rồi,
mà Mẹ, một người phụ nữ tinh tế bén nhạy, lại là một người Mẹ, làm sao quên được
Lời của Chúa Giêsu, “Riêng mẹ Ngài thì hằng
ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Luca 2: 51). Và ta có lẽ được
phép suy đoán cách hợp lý rằng trong suốt những năm tháng sống lặng lẽ cùng một
Giêsu tại làng quê Nadarét, chứng kiến “Chúa
Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên
Chúa và người ta” (Luca 2: 51-52), hẳn Mẹ đã nhận ra ngày càng rõ ràng rằng
Lời Thiên Chúa, qua lời thiên sứ, đang dần được thực hiện: “Ngài sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng
Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Ngài. Ngài sẽ
trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Ngài sẽ vô cùng vô tận… Đấng
Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Luca 1: 32-33, 35). Nếu
không có những cảm nghiệm “thực tế sát sườn”như thế hẳn Mẹ đã không lẳng lặng lắng
nghe và ứng xử như không có gì bất ngờ đang diễn ra. Mẹ Maria, một lần nữa
trong muôn ngàn lần, sống mãi lời xin “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”
(Luca 1: 38), vì Mẹ tin và cảm nghiệm rõ ràng rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Luca 1:
37). Mẹ không còn “bối rối” hay thắc
mắc hỏi han gì nữa: “Việc ấy sẽ xảy ra
cách nào…” (Luca 1: 29, 34).
Có lẽ cũng
nên lưu ý rằng chính Gioan viết trình thuật này vì Ông có mặt trong số sáu đồ đệ
mới tinh của Rabbi Giêsu (Gioan 1: 35-51) được mời dự tiệc cưới theo Thầy mình.
Gioan chứng kiến, quan sát theo kiểu “tai nghe mắt thấy, người thật việc thật”
tất cả những gì diễn ra. Gioan lưu giữ tất cả những lời nói, việc làm của Thầy
của mình và của Người Mẹ của Thầy nơi tiệc cưới này. Chắc chắn trong những năm
tháng sau khi Chúa Giêsu về trời, Gioan, người mà Chúa Giêsu đã trối Mẹ Maria lại cho Ông: “Đây là mẹ của anh” và là người “Kể từ giờ đó,… rước bà về nhà mình”
(Gioan 19: 28), đã được Mẹ Maria kể lại biết bao sự việc mà chỉ mình Mẹ biết về
Người Con Giêsu Thần linh của Mẹ, cũng như chia sẻ rất nhiều cảm nhận và kinh
nghiệm Mẹ đã có được trong hành trình Tin Cậy Mến mà Mẹ cùng đi với Người Con ấy,
trong đó tiệc cưới Cana là một chặng đường đáng ghi nhớ, nhờ đó Gioan nhận ra sứ
điệp của Chúa Giêsu, qua trải nghiệm của Mẹ Maria, và của chính mình để “làm chứng về những điều đó và đã viết ra”
(Gioan 21: 24).
Cũng chắc chắn
sau này, khi Gioan nghe Maria Mácđala kể lại việc bà đã thấy Thầy khi “Bà đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc” thì
“Đức Giêsu gọi bà: "Maria! " Bà
quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni! " (nghĩa là "Lạy Thầy")
… rồi “bà đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những
điều Ngài đã nói với bà” (Gioan 20: 11-18)
và nhất là sau khi tận mắt chứng kiến những lần hiện ra của Thầy mình trỗi
dậy từ cõi chết “Vào chiều ngày ấy, ngày
thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người
Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong,
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa…”
(Gioan 20:19-29) Gioan hẳn vẫn nhớ về tiệc
cưới này và suy nghĩ về ý nghĩa của tất cả các sự kiện ấy, từ buổi đầu gặp gỡ
Rábbi Giêsu, tiệc cưới Cana, tẩy uế Đền Thờ…cho đến kết luận “Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu
viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa
các sách viết ra” (Gioan 21: 25), tất cả đều đã được suy ngẫm kỹ lưỡng cặn
kẽ và “Chính môn đệ này làm chứng về những
điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực”
(Gioan 21: 24).
Thực ra
không phải nhờ đến những lần tận mắt chứng kiến việc Chúa Giêsu phục sinh thì
Gioan mới hiểu ra “điều lớn lao” mà Thầy Giêsu đã báo trước cho các môn đệ của
mình ngay từ buổi đầu gặp gỡ: “Anh sẽ còn
được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa…Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ
thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên
Con Người.” (Gioan 1: 50). Gioan luôn đi trước và hiểu ra trước các đồng
môn, kể cả trưởng lớp Phêrô, những lời
nói và hành động của Thầy mình: “Ông
Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy
mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải
còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng
trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này
không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ
người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật
vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy
từ cõi chết” (Gioan 20: 3-9). Điều lớn lao này, phép lạ vô cùng vĩ đại này,
không chỉ làm cho nước thành rượu, mà làm cho chết thành sống, làm cho sự chết
vốn hư vô hóa mọi sự vô thường trở nên sự sống có quyền năng tái tạo mọi sự vô
thường thành hiện hữu và được vĩnh cửu hóa, bởi lòng thương xót cứu độ của Đấng
xưa đã nói: “Giờ của tôi chưa đến”
thì nay công bố: “Lạy Cha, giờ đã đến!” (Gioan 17:1). Giờ gì? Giờ “Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh
Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Ngài quyền
trên mọi phàm nhân là để Ngài ban sự
sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Ngài. Mà sự sống đời đời đó
là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã
sai đến, là Giêsu Kitô” (Gioan 17: 1-3).
· Mẹ
Maria, người vâng lời, người xin vâng phục
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ
làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là lời mà Mẹ Maria thưa với thần sứ của
Thiên Chúa, tức là thưa với Thiên Chúa. Và đó cũng là lời Mẹ Maria nói với những
người hầu trong tiệc cưới Cana, cũng là trong cuộc đời hôm nay của tôi: “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo”
(Gioan 2: 5). Lời này minh chứng cho sự tin tưởng vô điều kiện mà Mẹ Maria đặt
vào Chúa Giêsu, là người có vẻ như vừa từ chối Mẹ! Mẹ đã có kinh nghiệm và biết rất rõ sự vâng phục Thiên Chúa sẽ đưa đến
những hoa trái gì. Do đó, Mẹ Maria là người đầu tiên làm được những gì đã
được nói với Mẹ: đây là lý do tại sao Mẹ có thể chuyển giao lời này cho người
khác. Trong tiệc cưới “xui xẻo bất chợt” này, Mẹ Maria là người đầu tiên “mở lời” và do đó trở thành người đầu tiên “mở
lối”.
Trong cuộc đời
có lẽ cũng đầy bất trắc của tôi, có sự hiện diện hay chút bóng dáng gì của Người
“Mẹ rất nhân từ” này không?
· Chúa
Giêsu không muốn làm tất cả một mình
“Chúa Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào
chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem
cho ông quản tiệc.”
Từng mệnh lệnh
trong hai mệnh lệnh do Chúa Giêsu công bố đều được thực hiện ngay lập tức. Điều
này cho thấy chính Chúa Giêsu làm chủ mọi sự, đó là căn tính của Ngài: Thiên
Chúa sáng tạo. Nhưng điều đặc biệt đáng chú ý là Chúa Giêsu liên kết các người đầy
tớ với phép lạ của Ngài.
Cách thức hoạt động này cho thấy ý muốn của
Thiên Chúa liên quan đến con người: qua Mẹ Maria, qua lời Chúa Kitô kêu gọi các
gia nhân cộng tác với Ngài để làm nên phép lạ này. Một vài bức tranh như bức
tranh của Carl Bloch bên cạnh đây, cho thấy những người hầu ở phía trước trong
khi Chúa Giêsu gần như bị ẩn ở phía sau.
Carl Heinrich Bloch (1834-1890), The
Wedding at Cana, (1870, sơn dầu trên vải bạt). Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Lâu
đài Frederiksborg, Hillerød, Đan Mạch. Phạm vi công cộng.
Tôi có muốn
cộng tác với Chúa Kitô làm nên “phép lạ lớn lao nhất” của Ngài không: cứu độ
con người vốn đã sa ngã trong tội, vì: “Mọi
người đã phạm tội” (Rm 5,12) và thực hiện công cuộc sáng tạo trời mới đất mới,
dù chỉ trong “chức vụ tôi tớ” ?:
“Bấy
giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì
trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh
là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ
phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên
Chúa ở cùng nhân loại, Ngài sẽ cư ngụ cùng với họ.
Họ sẽ là dân của Ngài, còn chính
Ngài sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ” (Khải huyền 21: 1-3).
Để kết thúc suy
tư, chúng ta hãy lấy lại những lời thơ tuyệt vời của Jean-Pierre Lemaire, vang
vọng cảm xúc chân chất và sâu sắc của những người hầu việc trong tiệc cưới
Cana, tất cả đều cảm thấy vinh dự được tham gia vào phép lạ này, một cách bí nhiệm:
“Chúng tôi rót rượu vào chén
một lần nữa
và mọi người
hạnh phúc, đôi vợ chồng thanh thản bình an,
không có
bóng tối trên khuôn mặt. Chúng tôi không uống rượu
nhưng chúng
tôi biết nó đến từ những chiếc chum đá
nơi nước đã
chuyển màu sắc và hương vị.
Cậu chủ và mẹ
cậu ở cuối bàn
biết điều đó
rõ hơn chúng tôi. Nhìn họ cười,
chúng tôi
đoán ra dòng chảy bí mật của dòng sông,
đang rót
tràn chén bằng thứ rượu, từ thứ nho giấu
kín,
và chúng tôi nhấm nháp sự tiếp tay này
như là phần việc của chúng tôi, là phần tốt nhất.”
Phêrô Phạm
Văn Trung
Michel Quesnel, Văn bản này được trích từ cuốn sách kỹ thuật số Découvrir autrement… La vie quotidienne au
temps de Jésus - Khám phá khác ... Cuộc
sống hàng ngày vào thời Chúa Giêsu, được viết bởi Michel Quesnel, học giả
Tân Ước và được Le Monde de la Bible xuất bản. Gần bốn mươi vật phẩm trình bày
các công cụ và cách sử dụng của chúng trong cuộc sống thường nhật ở Galilê và
Giuđêa vào thế kỷ thứ nhất sẽ được khám phá trong công trình này. mondedelabible.com
Sanhedrin, 43a: “And furthermore, another question is raised
along similar lines: With regard to that which Rav Ḥiyya bar Ashi says that Rav Ḥisda says: The court gives one who is being led out to be killed
a grain [koret] of frankincense in a cup of wine in order to confuse his
mind and thereby minimize his suffering from the fear of his
impending death, as it is stated: “Give strong drink to him that is ready to perish,
and wine to the bitter in soul” (Proverbs 31:6). And it is taught in a
baraita: The
prominent women of Jerusalem would donate this drink and bring it to those being led out to be killed. The
question is: If
these prominent women did not donate this
drink, from
whom is it taken? The Gemara
answers: With regard to this question, it is certainly reasonable that
this drink should be taken from the community, as it is written: “Give [tenu] strong drink,” in
the plural, indicating that it should come from them, the community.” www.sefaria.org
Phỏng theo ý của Gabriel Marcel, Bạn sẽ không chết, Paris, Arfuyen, 2005; P. 45.
“Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa
nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Ðức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp
mà Ðức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.…” (Kinh Hãy Nhớ)