“Qua việc xức dầu bệnh nhân và lời cầu nguyện của các Linh Mục, toàn thể Hội Thánh phó thác các bệnh nhân cho Chúa chịu nạn và vinh hiển để Người nâng đỡ và cứu chữa họ; hơn nữa, Hội Thánh còn khuyên bảo họ tự nguyện kết hợp với cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Kitô, để mưu ích cho dân Thiên Chúa” (GLTC 1499).

Dẫn nhập
Mỗi năm vào dịp
Ngày Quốc Tế Các Bệnh Nhân, đồng thời cũng là ngày lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, ngày
11.02, tại một số giáo xứ, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân thường được cử hành đồng
thời cho nhiều anh chị em bệnh nhân. Việc cử hành cách tập thể như vậy thật có
ý nghĩa không chỉ về phương diện tâm lý nhưng nhất là về phương diện phụng vụ.
Về phương diện tâm lý, sự gặp gỡ với những anh chị em khác trong cùng hoàn cảnh
sẽ giúp mỗi bệnh nhân được nâng đỡ rất nhiều về mặt tinh thần, vì thấy mình
không lẻ loi trong cuộc chiến chống lại bệnh tật. Về mặt phụng vụ, việc cử hành
mang tính tập thể diễn tả thật đẹp chiều kích Hội Thánh, sự hiệp thông, sự liên
đới với nhau trong việc kết hợp với cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Và do đó Hội
Thánh khuyến khích cách cử hành này khi có thể (NT 83) .
Tuy nhiên, trong những truờng hợp này, việc cử hành cũng cần phải hết sức cẩn
trọng để Bí tích này không đuợc ban cho những người khỏe mạnh và nhất là những
bệnh nhân ngoài Kitô giáo. Tại sao phải như thế? Nói cách khác, theo giáo huấn
của Hội Thánh, những ai có thể lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân? Hơn nữa,
giáo lý của Hội Thánh cũng dạy: “các Bí tích mang lại hoa trái nơi những người
lãnh nhận có sự chuẩn bị nội tâm cần thiết” (GLTC 1131) . Như vậy, đâu là sự chuẩn
bị nội tâm cần thiết cho việc lãnh nhận Bí tích này?
Đối diện với vấn đề này, chúng ta xin mạn phép góp một vài suy nghĩ liên quan
đến người lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, với ước mong để việc cử hành và
việc sống Bí tích này đạt được nhiều hoa trái thiêng liêng. Chúng ta sẽ khởi đi
từ giáo huấn của Thánh Kinh, đến Thánh Truyền và sẽ dừng lại với giáo huấn hôm
nay của Hội Thánh.
I. Giáo huấn của Thánh
Kinh
Nền tảng đầu tiên của các Bí tích hệ tại nơi mặc khải Thánh Kinh. Với Bí tích
Xức Dầu Bệnh Nhân, một trong những mặc khải ấy thể hiện nơi thư thánh Giacôbê:
“Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ
sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do
lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy phạm
tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,13c-15)
Chúng ta chỉ đề cập đến câu đầu tiên của bức thư này. Theo văn mạch, thánh
Giacôbê đang viết đoạn thư này cho cộng đoàn Kitô giáo. Do vậy cụm từ ai trong
anh em muốn nói đến một người Kitô hữu. Từ ngữ đau yếu được hiểu thế nào? Theo
đa số các nhà chú giải, từ đau yếu được dùng ở đây để chỉ sự đau yếu về mặt thể
lý; từ ngữ ấy được dùng để chỉ những người bệnh nặng, bệnh liệt giường. Thánh
Kinh Tân Ước cũng đã sử dụng từ đau yếu này tổng cộng 35 lần để chỉ những
trường hợp bệnh nhân được khiêng đến với Đức Giêsu
.
Như vậy, theo mặc khải của Thánh Kinh, người lãnh nhận Bí tích này cần có hai
điều kiện: 1/người Kitô hữu; 2/vì hiệu quả của Bí tích này là để bệnh nhân được
Chúa nâng dậy, nên người lãnh nhận phải là người bệnh nặng về mặt thể lý.
II. Giáo huấn của Thánh
Truyền
Nếu các Bí tích có nền tảng đầu tiên là mặc khải của Thánh Kinh; thì nền tảng
thứ hai không thể thiếu của các Bí tích là mặc khải của Thiên Chúa được thể hiện
qua Thánh Truyền. Với Thánh Truyền của Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, chúng ta tạm
chia ba giai đoạn sau:
2.2. Giai đoạn I: từ thế
kỷ II đến thế kỷ VII
Vào thế kỷ III (khoảng năm 215), tác phẩm Truyền Thống Tông Đồ được coi là của
thánh Hyppôlytô vẫn xác định người lãnh nhận Bí tích này phải là người đau yếu
về mặt thể lý, vì hiệu quả chính yếu của Bí tích này là để “mang đến sức mạnh
cho những ai lãnh nhận và mang đến sức khỏe cho những ai sử dụng”. Hai trăm năm sau, tư
tưởng ấy được lập lại bởi Đức Giáo Hoàng Innocent I trong thư gởi cho Decentius
de Gubbio vào ngày 19.03.416. Trong bức thư này, Đức Giáo Hoàng vẫn xác định Bí
tích này chỉ được ban cho những ai đau yếu về mặt thể lý, nhưng Ngài thêm vào
một qui định mới: những người đang trong thời kỳ thống hối thì không thể lãnh
nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (DS 216). Trong giai đoạn này còn
có tác phẩm Những Bài Giảng Của Giám Mục Césaire d’Arles (năm 470-543). Tác giả
vẫn xác định người lãnh nhận Bí tích này là người đau yếu về thể lý, nhưng cũng
xuất hiện ý tưởng mới: “các bạn thấy rằng ai trong cơn đau bệnh đến nhà thờ sẽ
xứng đáng lãnh nhận sức khỏe thân xác và ơn tha thứ tội lỗi”. Nói cách khác, đối với
tác giả, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân vừa có hiệu quả về mặt thể lý, vừa có hiệu
quả thiêng liêng là tha thứ tội lỗi.
Như vậy, đến thế kỷ VII, giáo huấn của thánh Giacôbê vẫn được Hội Thánh duy
trì: Bí tích Xức Dầu chỉ được ban cho các bệnh nhân Kitô hữu, vì hiệu quả chính
yếu của Bí tích này là ban sức mạnh cho những ai lãnh nhận. Tuy nhiên, ở giai
đoạn này cũng bắt đầu xuất hiện khó khăn: làm sao dung hòa quan điểm của Đức
Giáo Hoàng Innocent I (không thể ban Bí tích Xức Dầu cho các tội nhân) và quan
điểm của Đức Giám Mục Césaire d’Arles (Bí tích này cũng ban ơn tha tội). Cần
một giai đoạn mới ra đời để giải quyết vấn đề này.
2.2. Giai đoạn II: từ thế
kỷ VIII đến thế kỷ XII
Bước sang thế kỷ VIII, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân được Hội Thánh qui định: chỉ
được cử hành bởi Linh Mục (và Giám Mục) . Do đó, các sách Phụng Vụ
bắt đầu ghép nghi thức Bí tích Xức Dầu với nghi thức trao Của Ăn Đàng và với
nghi thức Bí tích Thống Hối, vì cả ba nghi thức đều do Linh Mục cử hành cho
cùng bệnh nhân. Thứ tự cử hành gồm bốn bước: 1/ Linh mục nghe hối nhân xưng
tội; 2/ ban Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân; 3/ ban ơn giao hòa của Bí tích Thống
Hối; 4/ trao Của Ăn Đàng. Sở dĩ phải theo thứ tự này vì phải đảm bảo ý nghĩa
của việc sám hối vào thời ấy: hối nhân sau khi xưng tội phải trải qua thời gian
thống hối, trước khi lãnh ơn giao hòa, quãng thời gian biểu trưng ấy được tận
dụng để ban Bí tích Xức Dầu.
Việc thực hành với thứ tự như vậy bắt đầu gặp khó khăn với Công Đồng Pavie năm
850. Dựa vào bức thư của Đức Giáo Hoàng Innocent I ngày 19.03.416 (DS 216),
Công Đồng Pavie quyết định không ban Bí tích Xức Dầu cho những ai chưa lãnh
nhận ơn giao hòa (DS 620). Do đó, người ta đã phải thay đổi thứ tự cử hành hiện
thời. Từ nay, bốn bước cử hành sẽ theo thứ tự mới: 1/ Linh mục nghe hối nhân
xưng tội; 2/ ban ơn giao hòa; 3/ trao Của Ăn Đàng; 4/ ban Bí tích Xức Dầu Bệnh
Nhân. Vì được cử hành sau cùng, trước khi Bệnh nhân qua đời, nên Bí tích Xức
Dầu dần dần bị coi như Bí tích chuẩn bị cho sự chết. Do đó, người lãnh nhận Bí
tích này cũng dần dần được hiểu là người hấp hối chứ không chỉ bệnh nặng.
Như vậy, cho đến thế kỷ XII, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân vẫn chỉ được dành cho
người bệnh về mặt thể lý vì hiệu quả của Bí tích này vẫn là ban sức mạnh phần
xác. Tuy nhiên, bắt đầu có sự thay đổi: người lãnh nhận Bí tích Xức Dầu không
còn thuần túy là người bệnh nặng về thể lý, nhưng phải là người đang hấp hối.
Các Công Đồng chung có chuẩn nhận không?
2.3. Giai đoạn III: từ thế
kỷ XIII đến thế kỷ XX
Trong giai đoạn này, có hai Công Đồng chung đề cập đến người lãnh nhận Bí tích:
1/ Công Đồng Florence (năm 1439) trong Décret pour les Arméniens đã định tín:
“Bí tích thứ năm là Bí tích Xức Dầu Cuối Cùng (l’extrême – onction) với chất
thể là dầu Oliu được Đức Giám Mục làm phép. Bí tích này chỉ được ban cho những
bệnh nhân sắp lìa cõi thế. […] Về hiệu quả, Bí tích này là sự chữa trị cho tâm
hồn. Tuy nhiên, nếu hữu ích cho linh hồn, Bí tích này cũng chữa trị phần xác”
(DS 1324-1325). Như vậy, Công Đồng Florence đã chuẩn nhận tư tưởng đương thời:
Bí tích này chỉ được ban cho những ai sắp lìa cõi thế. Hiệu quả chính của Bí
tích là chữa trị tâm hồn, còn việc chữa lành phần xác chỉ tùy thuộc.
2/ Công Đồng Tridentinô (năm 1545-1563) định tín: “Bí tích này được trao ban
cho những bệnh nhân, nhất là những ai lâm vào tình trạng nguy tử; vì thế Bí
tích này cũng được gọi tên là Bí tích của những người sắp ra đi” (DS 1698). Như
vậy, có một khác biệt nhỏ với Công Đồng Florence, Công Đồng Tridentinô phân
biệt giữa người bệnh và người nguy tử, cả hai đều có thể lãnh nhận Bí tích này.
Nhận định: dù có thay đổi về cách gọi tên Bí tích, hai Công Đồng chung trong
giai đoạn này vẫn luôn trung thành với truyền thống và đã định tín: vì hiệu quả
của Bí tích là sự chữa lành phần hồn và phần xác, nên người lãnh nhận Bí tích
này phải là người bệnh nhân Kitô hữu và thậm chí phải là người hấp hối. Giáo
Huấn hôm nay có theo sát giáo huấn này không?
III. Giáo huấn hôm nay của
Hội Thánh
Từ Công Đồng Vatican II, có hai mảng giáo huấn quan trọng sau đây:
A/ Hiến Chế Phụng Vụ của Công Đồng Vatican II dạy: “Bí tích Xức Dầu Cuối Cùng
hay đúng hơn còn có thể gọi là Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân không phải chỉ là Bí
tích dành riêng cho những người hấp hối. Do đó, thời gian thuận tiện để nhận Bí
tích này chắc chắn là lúc tín hữu bắt đầu nguy tử vì bệnh tật hay già yếu” (PV
73). Như vậy, Công Đồng
Vatican II đang canh tân điều Công Đồng Florence đã nói trước đó: từ nay sẽ là
Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, vì người lãnh nhận là người bệnh (hoặc già yếu) chứ
không hẳn là người hấp hối.
B/ Theo định hướng của Công Đồng Vatican II, Bộ Phụng Tự khi ban hành Nghi Thức
Xức Dầu Bệnh Nhân và việc săn sóc họ theo mục vụ, vào ngày 07.12.1972, và đã
qui định 6 trường hợp như sau về người lãnh nhận Bí tích này (NT 8-15):
1/ Bí tích này có thể ban lại nếu sau khi lãnh nhận Bí tích, bệnh nhân bình
phục và sau đó lại bệnh trở lại; hay nếu trong cùng một căn bệnh kéo dài lâu,
tình trạng nguy cập trở nên trầm trọng hơn.
2/ Bí tích này có thể ban cho bệnh nhân trước khi giải phẫu vì căn bệnh nguy
hiểm.
3/ Bí tích này có thể ban cho người già cả khi sức lực đã yếu nhiều, dù không
có bệnh nguy ngập.
4/ Bí tích này có thể ban cho trẻ em đến thời kỳ biết sử dụng trí khôn.
5/ Bí tích này có thể ban cho những bệnh nhân tuy dù đã bất tỉnh hoặc mất trí,
miễn là khi họ còn tỉnh táo, với tư cách là những người có đức tin, có thể họ
xin chịu Bí tích này.
6/ Đối với bệnh nhân đã chết, Linh Mục chỉ cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi
cho họ; và Linh Mục không ban Bí tích Xức Dầu cho họ. Còn nếu hồ nghi không
biết bệnh nhân chết thật chưa, thì có thể ban Bí tích này với điều kiện.
Nhận định: giáo huấn ngày hôm nay của Hội Thánh về Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
không phải tự nhiên mà có. Giáo Huấn ấy được dệt nên từ nền tảng Thánh Kinh,
Thánh Truyền. Đó là điều Hội Thánh đã sống và đã cử hành dưới tác động của Chúa
Thánh Thần trong suốt hai ngàn năm qua.
Kết luận
Suốt hai ngàn năm qua điều kiện của người lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân
vẫn luôn thể hiện tính Duy Nhất trong giáo huấn của Hội Thánh. Điều kiện để Bí
tích thành sự : 1/người lãnh nhận phải là người Kitô hữu (nghĩa là đã được Rửa
Tội, vì Bí tích Rửa Tội là cửa ngõ của tất cả các Bí tích khác); 2/phải là
người bệnh nặng về mặt thể lý (hoặc là người già yếu). Và để việc lãnh nhận
được hợp pháp, người lãnh nhận cần: 1/ đến tuổi khôn; 2/ ở trong tình trạng ân
sủng (xưng tội trước khi lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân).
Như thế, vì mục đích và ý nghĩa riêng của mình, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân không
thể ban cho những bệnh nhân ngoài Kitô giáo, không thể ban cho những ai còn
khoẻ mạnh. Thậm chí Bí tích này cũng không thể ban cho những ai sắp lâm vào cơn
nguy tử nhưng không phải vì bệnh tật, ví dụ các người lính sắp ra trận hoặc
những người sắp phải ra pháp trường… (trong những trường hợp này chỉ cần giải
tội và ban Mình Thánh Chúa).
Để kết thúc, chúng ta mượn lời giáo huấn của Hội Thánh để tóm kết ý nghĩa của
Bí tích này: “Qua việc xức dầu bệnh nhân và lời cầu nguyện của các Linh Mục,
toàn thể Hội Thánh phó thác các bệnh nhân cho Chúa chịu nạn và vinh hiển để
Người nâng đỡ và cứu chữa họ; hơn nữa, Hội Thánh còn khuyên bảo họ tự nguyện
kết hợp với cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Kitô, để mưu ích cho dân Thiên
Chúa” (GLTC 1499).
20.03.2012
Linh Mục Giuse Đỗ Xuân
Vinh
Đại Chủng Viện Thánh Giuse – Saigon
Bộ Phụng Tự, Nghi
thức xức dầu Bệnh nhân và việc săn sóc họ theo mục vụ, 07.12.1972.
Bản dịch của Ủy Ban Giám Mục về Phụng Vụ, Saigon, 1974, chúng ta viết tắt NT.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, ban hành ngày 11.10.1992, do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Bản
dịch của Hội Đồng giám mục Việt Nam, Ủy ban giáo lý đức tin, nxb Tôn Giáo,
2010, viết tắt GLTC.
Hai trong số các tác giả mà chúng ta dựa vào: 1/B. Sesboüé,
“L’onction des malades, tendresse de Dieu envers l’humanité souffrante”, in Invitation à croire. Des sacrements
crédibles et désirables, Paris, Cerf, 2009, tr. 231-232 ; 2/ C.
Ortemann, Le sacrement
des malades. Histoire et signification, Paris, Ed. du Chalet, 1971,
tr. 14-19.
Hippolyte de Rome, La
Tradition Apostolique, Paris, Cerf, 1946, coll. “Source
Chrétienne”, n°11bis, Introduction, traduction et notes par B. Botte, tr. 34.
Denzinger, Symboles
et définitions de la foi catholique, Paris, Cerf, 1996, viết tắt
DS.
Césaire d’Arles, Sermons
au peuple, Paris, Cerf, 1971, coll. “Source Chrétienne”, n° 175,
Introduction, traduction par M-J. Delage, tr. 423.
Cho đến thế kỷ VII, Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân có thể được cử hành
bởi Giám Mục, bởi Linh Mục, bởi Phó Tế và thậm chí có thể bởi giáo dân. Nhưng
từ thế kỷ VIII, nhất là do ảnh hưởng bởi cuộc canh tân của Hoàng Đế Charlemagne
(768-814), hàng loạt Công Đồng qui định chỉ có Linh Mục (lẽ tất nhiên bao hàm
Giám Mục) mới được cử hành Bí tích này: Capitulaire de Charlemagne (năm 769,
canon 10); Concile de Chalon-sur-Saône (năm 813, canon 48); Concile
d’Aix-la-Chapelle (năm 836, canon 5); Concile de Mayence (năm 847, canon 26).
Chúng ta tham khảo J-P. Revel, Traité des sacrements. VI. L’onction des malades.
Rédemption de la chair et par la chair. Paris, Cerf, 2009, tr.
77-88.
Hiến Chế Phụng Vụ của Công Đồng Vatican II: Sacrosanctum Concilium,
chúng ta viết tắt PV.