Hỏi : xin cha giải thích các nhân đức mà người Công giáo phải có để sống đức tin trước mặt người khác.
Đáp : Nói đến những nhân đức ( Virtues)
mà người Công Giáo phải có để sống xứng đáng với địa vị của mình là Kitô hữu
trước mặt người đời, chúng ta nhớ ngay đến lời Thánh Phaolô đã nói với tín hữu
Phi-Lip-Phê xưa như sau :
“Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến, và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh (nhân đức) đáng khen, thì anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe , đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.” ( PL
4 : 8-9)
Qua lời khuyên trên đây của Thánh
Phaolô, chúng ta thấy tầm quan trọng phải trang bị cho mình những đức tính và
những nhân đức cần thiết để xứng đáng là người Kitô hữu sống trong Giáo Hội và
ngoài xã hội
Thật vậy, sở dĩ phải nói đến các nhân đức
-nói chung - là vì Thiên Chúa chỉ ban riêng cho con người trí hiểu biết và ý muốn
tự do.(Intelligence and free will) Nhờ trí hiểu con người biết phân biệt giữa
cái xấu và cái tốt, giữa sự lành, sự thiên hảo và mọi điều gian ác, nhơ nhuốc
và sự dữ đầy rẫy ở khắp nơi trên trần thế này. Biết phân biệt ranh giới giữa
thiện và ác, giữa tốt và xấu sẽ đưa đến tự do chọn lựa để đứng về phía nào và
chịu trách nhiệm về chọn lựa của mình trước Thiên Chúa là Đấng cực tốt, cực
lành, nhưng rất gớm ghét mọi sự dữ, sự xấu , sự gian ác và ô uế, hư thân mất nết..
Do đó, sống xứng đáng là con người thôi
cũng đòi hỏi đức hạnh để phân biệt mình với loài vật chỉ có bản năng sinh tồn.
Là người tín hữu , càng cần có nhân đức hay đức hạnh để sống đẹp lòng Chúa hơn.
Đức hạnh là nét đẹp của tâm hồn không phải tự nhiên mà có.Trái lại, đó là kết
quả luyên tập của lý trí và ý chí nhằm tô điểm cho mình những vẻ đẹp tinh thần
không những để phân biệt mình với loài vật mà cả với những người không chú tâm
tập luyện cho mình những nhân đức cao đẹp giúp nâng cao phẩm giá con người là
thụ tạo có lý trí và ý muốn tự do..
Trong lãnh vực thiêng liêng, nhân đức là
những vẻ đẹp của tâm hồn đưa ta đến gần Thiên Chúa là Chân Thiên Mỹ tuyệt đối,
với ước muốn tha thiết là được trở nên giống Người và “ được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này.” ( 2 Pr 1: 4) Nói khác đi, ta không thể sống đẹp lòng Chúa mà không cố
gắng trở nên giống Chúa trong mọi sự, từ lời nói đến suy tư và cung cách hành động
trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống con người trên trần thế này.
Giáo lý Giáo Hội phân chia ra hai loại
nhân đức sau đây :
A- Nhân đức nhân bản hay đối nhân (
Human Virtues)
B- Nhân đức thần học hay đối Thần (
Theological Virtues).
A- Nhân đức nhân bản là những đức tính
luân lý đã được tập thành do nhận thức được những gì là tốt đẹp, là xứng đáng với
phẩm giá con người, khác xa thảo mộc và loài vật chỉ có bản năng mà không có lý
trí và ý chí.Nhận thức rồi cố gắng tập luyện với quyết tâm của ý chí tự do để
trở thành tập quán (habit) vững chắc chỉ đạo cho mọi hành vi con người qui hướng
về những mục đích thiện hảo mà lý trí đã nhìn ra và thúc đẩy con người tiến tới.
Có 4 nhận đức gọi là nhân đức trụ (
Cardinal Virtues) vì vai trò quan trọng của nó trong việc hướng dẫn hành vi con
người tiến đến mục đích tốt.
Bốn nhân đức trụ đó là khôn ngoan, công
bằng, dũng cảm và tiết độ.
1- Nhân đức không ngoan ( Prudence) là
nhân đức luân lý nhờ đó con người phân biệt điều thiện hảo và sự gian ác để từ
đó, tự do chọn lựa điều thiện hảo trong thực hành để hành vi nhân linh của mình
có giá trị luân lý, đạo đức.. Hành vi nhân linh ( Human act) thì khác xa với
hành động của con người ( act of man) ở điểm căn bản là hành vi nhân linh mang
tính luân lý,( morality) còn hành động của con người thì không. Thi dụ : đi, đứng,
nói ,cười , nằm nghỉ , ăn, uống, hít thở không khí....là những hành động tự
nhiên của con người, không mang tính luân lý. Trái lại,chửi bới, lăng mạ người
khác, giơ tay chém giết người, chân bước đi tìm thú vui dâm ô, ngoại tình, hoặc
đi đến các nơi cờ bạc và vui chơi thác loạn… là những hành vi nhân linh vì xuất
phát từ ước muốn của tâm hồn, của lý trí và tự do chiều theo những đòi hỏi của
các khuynh hướng ( tendencies) xấu trong bản năng nên mang tính luân lý. Về mặt
đạo đức, con người chỉ chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa về mọi hành vi nhân
linh của mình mà thôi.
Nghĩa là, nếu con người sử dụng đức khôn
ngoan khi hành động thì sẽ tránh được những tội lỗi , những nguy cơ đưa đến
hành động xấu và gian ác, trái nghich với những đòi hỏi của luân lý , đạo đức
2- Đức công bằng ( Justice) là nhân đức
luân lý xuất phát từ Thiên Chúa là Đấng chí công vô tư. Chính Người đã truyền
cho dân Do Thái xưa mệnh lệnh này: “ ngươi không được trộm cắp.” )Xh 20: 15;
Đnl 5: 19, Mt 19: 18)
Đức công bằng đòi buộc con người tôn trọng
tài sản, sinh mạng và danh dự của người khác như của chính mình khi sống chung
trong cộng đồng xã hội.Nó cũng đòi buộc trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về
Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã nói bọn Biệt phái xưa kia: “ của Xê-da ( Caesar)
trả về cho Cê-da, của Thiên Chúa , trả về Thiên Chúa.” ( Mt 22: 21; Mc 12: 17);
Lc 20: 25).
Mỗi người chúng ta nhận lãnh từ Thiên
Chúa một linh hồn và những tài năng trí tuệ khác nhau.Do đó, chúng ta phải trả
lời Thiên Chúa về những gì mình đã làm cho linh hồn cùng những tài năng Chúa đã
ban ; ví như chủ nhà kia đã trao cho các đầy tớ mỗi người một số nén vàng khác
nhau, và cuối cùng chủ sẽ đỏi các đầy tớ đó tính sổ về những gì họ đã làm với
những nén vàng họ đã nhận lãnh. ( x Mt 25: 14-30)
Liên quan đến đức công bằng, Thánh
Phaolô đã khuyên tín hữu Cô-lô-xê như sau :
“Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ ở trên trời.” (
Cl 4: 1)
Chúa là Đấng chí công vô tư, nên Người sẽ
phán đoán chúng ta theo lòng nhân từ và công bằng của Người.Vì thế, đừng ai lầm
tưởng rằng cứ bỏ nhiều tiền ra xin lễ, mua lễ đời đời và mua “hậu” của những
nơi buôn thần bán thánh, là chắc chắn sẽ được vào Nước Trời sau khi chết. Trái
lại, phải biết khôn ngoan sắm lấy cho mình kho tàng không hư mất ở trên Trời,
nơi “trộm cắp không bén bảng, và mối một không đục phá” ( Lc 12 :33), bằng quyết
tâm yêu Chúa và sống theo đường lối của Người ngay từ bây giờ thì đó mới là bảo
đảm vững chắc cho phần rỗi mai sau để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời. Không có cố
gắng cá nhân công tác với ơn Chúa, mà chỉ dựa vào người khác cầu nguyện cho thì
sẽ không ích gì, vì không ai có thể “ăn hộ “cho người khác được no nê về mặt
thiêng liêng và tự nhiên được.
3- Đức dũng cảm ( Fortitude) là nhân đức
luân lý giúp con người cương quyết thi hành điều thiên hảo mà lý trí đã nhận biết
và thúc dục ý chí theo đuổi cho đến cùng, dù gặp nhiều khó Khăn cản trở.Nó cũng
giúp con người chống lại mọi cảm dỗ của xác thịt, của ma qủi và gương xấu của
thế gian, nhất là giúp con người dám chết cho niềm tin của mình như các Thánh Tử
Đạo, cha ông ta. Đây chính là điều Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa:
“ Trong thế gian, anh em sẽ phải gian
nan khốn khó.
Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian.” ( Ga 16: 33)
Như thế., nếu không có đức dũng cảm và
nhờ ơn Chúa nâng đỡ thì khó lòng đứng vững trước mọi nguy cơ cám đỗ hướng về sự
dữ, sự xấu và tội lỗi.
4-Đức tiết độ ( Temperance ) là nhân đức
luân lý giúp ta chế ngự những đòi hỏi, lôi cuốn của vui thú bất chánh hoặc tham
mê những của cải và vui thú xác thịt trái nghịch với đức công bằng và với luân
lý, đạo đức mà người tín hữu phải tránh cho được sống đẹp lòng Chúa. Không có đức
tiết độ, người ta sẽ dễ chiều theo những đòi hỏi hay đam mê của dục vọng, và tội
lỗi.
Đó là lý do vì sao Thánh Phaolô đã
khuyên môn đệ Ti Tô như sau :
“ Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục , mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.” ( Tt 2: 12)
B- Nhân đức đối thần hay thần học:
là những nhân đức hay động lực giúp ta
hướng về Thiên Chúa là cùng đích của đời mình.Các nhân đức này minh chứng cụ thể
niềm tin yêu và hy vọng của chúng ta đặt nơi Thiên Chúa là Đấng vô hình nhưng
chắc chắn có thật và đã mặc khải Người cách trọn vẹn và cụ thể cho ta nơi Chúa
Kitô, là Đấng cứu chuộc nhân loại, đã mang xác phàm để cho ai “ Thấy Thầy, thì
cũng thấy Chúa Cha” như Chúa đã trả lời cho môn đệ Phi-lip Phê một ngày kia.(
Ga 14:9)
Có 3 nhân đức đối thần là Tin, Cậy và mến.
1- Đức Tin ( faith): nhân đức đối thần
này trước hết là một quà tặng ( gift) của Thiên Chúa ban nhưng không cho ta
nhưng cũng đòi hỏi sự đáp trả của mỗi cá nhân bằng cố gắng cộng tác với ơn Chúa
để đức tin được lớn lên theo thời gian trong chiều kích thiêng liêng. Khi được
rửa tội, thì hạt giống đức tin này được gieo vào tâm hồn ta. Nhưng khi lớn lên,
nếu không có sự giúp đỡ của cha mẹ và người đỡ đầu bằng gương sáng và lời giảng
dạy về Thiên Chúa trong gia đình, và sau đó ở môi trường đức tin là giáo xứ hay
công đoàn thì hạt giống đức tin kia không thể tự nó lớn lên được và sẽ không
sinh hoa trái gì cho người nhận lãnh. Ngược lại nếu được hướng dẫn từ bé, lớn
lên với niềm tin có Chúa và siêng năng cầu nguyện và lãnh các bí tích hòa giải
và nhất là Thánh Thể thì sẽ giúp cho đức tin lớn lên đến mức trưởng thành. Sau
đó, với quyết tâm của cá nhân cộng tác với ơn thánh để bước đi theo Chúa mỗi
giây phút trong cuộc sống thì chắc chắc đức tin sẽ càng lớn mạnh nhờ đời sống đạo
đức, vì “ đức tin không có việc lành là đức tin chết.” như Thánh Gia-cô-bê Tông
Đồ đã quả quyết. ( Gc 5:6)
2- Đức Cậy : ( hope) là nhân đức đối thần
giúp ta trông cậy vững vàng vào Chúa và hy vọng được vui hưởng Thánh Nhan Người
một ngày kia sau khi kết thúc hành trình đức tin trong trần thế này.Dĩ nhiên phải
nhờ cậy vào ơn thánh nâng đỡ để ta không nản chí, thất vọng khi gặp gian nan khốn
khó trong cuộc sống và trong niềm tin có Chúa. Nếu ta bền chí trông cậy thì chắc
chắn Chúa sẽ ban ơn nâng đỡ như Người đã hứa mà tác giả Thư Do Thái đã nhắc lại
như sau:
“ Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, ví Đấng đã hứa là Đấng trung tín.” ( Dt 10
:23)
3- Đức mến ( love, charity) là nhân đức
đối thần rất quan trọng vì nhờ đó ta thể hiện cách cụ thể lòng yêu mến Chúa
trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính bản thân mình. Thánh Phaolô đã
coi đức mến ( đức ái) quan trọng hơn cả đức tin và đức cậy trong thư thứ nhất gửi
tín hữu Coi-rin-tô như sau:
“ Hiện nay đức tin , đức cậy, đức mến
Cả ba đều tồn tại
Nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.”( 1
Cor 13: 13)
Đặc biệt hơn nữa là chính Chúa Giêsu đã
gọi đức ái là một điều răn mới Chúa ban cho các Tông Đồ sống và thực hành để chứng
minh họ là môn đệ của Chúa:
“ Thầy ban cho anh em một điều răn mới
Là anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy
đã yêu thương anh em
Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết: anh
em là môn đệ của Thầy
Là anh em có lòng yêu thương nhau.” ( Ga
14: 34-35)
Chính Chúa cũng vì yêu thương mà đã hy
sinh mạng sống mình cho tất cả mọi người
Chúng ta được sống như Người đã nói với
các môn đệ trước giờ tử nạn:
“ Không ai có tình thương nào cao cả hơn
tình thương của người đã hy sinh
Tính mạng vì bạn hữu của mình.” ( Ga 15:
13)
Tóm lại, những nhân đức nói trên- nhân bản
và đối thần- là những vẻ đẹp lỗng lẫy của mọi tâm hồn tín hữu Chúa Kitô sống
trong Giáo hội và trong xã hội loài người để qua thực hành những nhân đức đó,
người tín hữu sẽ là nhân chứng hùng hồn cho Chúa trước mặt người đời chưa nhận
biết Chúa và chưa ý thức được giá trị thiêng liêng của các nhân đức ấy.Ước mong
mọi người tín hữu chúng ta cố gắng trang bị cho mình những nhân đức nói trên để
cho người đời cứ dấu này “ mà nhận biết chúng ta là môn đệ của Thầy” sống giữa
họ. ( x. SGLGHCG số 1803- 1829)
Lm Phanxicô Xaviê Ngô tôn Huấn