Tất cả chúng ta đều biết mùa Vọng (Advent) có nghĩa là đến và chuẩn bị. Tôi muốn mời bạn cùng suy ngẫm về những nội dung cần thiết của hạn từ này (Advent) cũng như những hàm ý mà chúng ta rất ít khi thừa nhận.

Vào ngày 8 tháng 11, Giáo hội kính nhớ
Chân phước Duns Scotus (mất năm 1308), một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất
của Giáo hội. Nét nổi bật trong ý tưởng của ngài là tri thức hoàn hảo của Thiên
Chúa thể hiện nơi sự cởi mở và khả năng tiếp thu vô hạn của tâm trí con người.
Đối với các tu sĩ Phanxicô, việc tiếp nhận này là một dấu chỉ của phẩm giá con
người: con người tiếp nhận những chân lý mà họ không thể đạt được bằng sức
riêng của mình. Điều này nghe có vẻ phức tạp nhưng lại đưa đến một vài kết luận
đơn giản: tất cả tri thức chân chính đều đến từ một cuộc gặp gỡ và nảy sinh từ
sự tiếp thu của trí óc và con tim của chúng ta (intellectus passibilis – tri thức
thụ động). Nếu áp dụng nhận định này của Scotus vào mùa Vọng, chúng ta có thể
thấy rằng có những điều trong cuộc sống cản trở việc đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể
và có lẽ chúng ta không mong muốn một cuộc gặp gỡ thực sự với Thiên Chúa đích
thực mà là một cuộc gặp gỡ với vị thần linh do chúng ta tạo ra.
Căn nguyên của điều này có lẽ ở khởi đầu
tự do của chúng ta, ngay cả trước khi chúng ta lựa chọn giữa các đối tượng, và
có được một quan điểm sơ khởi đối với thế giới. Hoặc chúng ta chấp nhận hay từ
chối trật tự hữu thể với Thiên Chúa ngay từ đầu. Nếu quyết định từ chối, chúng
ta áp đặt ý tưởng của mình vào thực tại thay vì khám phá cấu trúc, mục đích, phẩm
trật của nó. Chúng ta lạm dụng mọi thứ - dù là con người hay vật chất - và đánh
mất cái nhìn toàn thể. Chính nơi tội lỗi mà chúng ta làm hỏng mục đích của vạn
vật một cách dứt khoát nhất và lạm dụng chúng; thay vì tìm kiếm những gì là
chân, thiện, mỹ và thánh thiện, chúng ta lại nô lệ chính mình cho những thứ
thay thế, giả tạo. Quyết định nguyên khởi này không chỉ xảy ra một lần
duy nhất (như với các thiên thần), nhưng nó đòi hỏi mỗi khi chúng ta gặp phải
những gì có cùng đích khách quan. Truyền thống Kitô giáo có một hạn từ giúp đạt
được ý hướng đúng đắn đối với thế giới thụ tạo và học hỏi về trật tự nội tại của
nó: Sự khổ chế. Sự khổ chế giải thoát chúng ta khỏi chính mình và khỏi những
đòi hỏi do con người áp đặt, để phụng sự Thiên Chúa. Đức Maria diễm phúc là một
ví dụ điển hình: được thụ thai vô nhiễm nguyên tội, Mẹ không phạm tội và luôn
chọn lựa trong sự tự do tuyệt đối vì toàn thể con người Mẹ hướng về Thiên Chúa
và ý muốn của Ngài.
Đúng vậy, mùa Vọng là thời gian của khổ
chế. Hạn từ ‘khổ chế’ trước hết có nghĩa là “huấn luyện”. Màu tím của phụng vụ
nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa đó, nhưng cũng về việc thực hành chay tịnh của anh
em Chính thống giáo trong thời gian này. Khi thực hành khổ chế, chúng ta ngừng
coi sự vật như là cùng đích của mình và bắt đầu chấp nhận trở lại trật tự của
Thiên Chúa. Chúng ta tự mình tự huấn luyện lại chính mình, vì vậy có thể nói,
chay tịnh chỉ là một khía cạnh của việc tái đào luyện đó. Khổ chế đích thực là
một công cụ để chuẩn bị chính mình, để cởi mở hầu đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể,
và không chỉ đơn thuần là từ bỏ một số đối tượng (thuốc lá, rượu, sôcôla, v.v.)
nhưng nhằm điều chỉnh lại toàn bộ sự tập trung của chúng ta đối với thực tại.
Khổ chế nhằm mục đích thay đổi khao khát của chúng ta, thoát khỏi sự khao khát
ích kỷ và hướng đến thái độ nhìn nhận và tiếp nhận trật tự của Thiên Chúa trong
sự vâng phục.
Các nhà thần bí đã khôn ngoan nhắc nhở
chúng ta rằng các giai đoạn từ bỏ sự vật như vậy sẽ bị gián đoạn bởi các giai
đoạn của hoàn tất và hành động, giống như nhịp thở của chúng ta là sự hòa hợp
giữa hít vào và thở ra. Khi chúng ta hít vào, phổi được lấp đầy lượng oxy cần
thiết. Tuy nhiên, để hít vào, mũi hay miệng phải mở ra: Nếu đường thở bị tắc
nghẽn, chúng ta không thể hít vào. Chúng ta cũng không thể hít vào trong môi
trường chân không, và thế giới xung quanh chúng ta chỉ có thế: một nơi trống trải
không thể lấp đầy chúng ta. Tuy nhiên, việc hít vào lại khá thụ động; chúng ta
được lấp đầy bởi một cái gì đó. Sự khổ chế hoạt động giống như thế. Nó loại bỏ
sự tắc nghẽn và hướng chúng ta đến nguồn không khí trong lành. Nó chuẩn bị cho
chúng ta được lấp đầy. Chỉ khi thở ra, chúng ta mới thực sự trở nên năng động.
Chúng ta sử dụng không khí trong cơ thể để nói, hát, cho chuyển động của cơ thể
— chúng ta bộc lộ chính mình. Chúng ta đến với chính mình và với mầu nhiệm của
chính hữu thể chúng ta, đến với Thiên Chúa, và gặp gỡ Ngài trong tâm hồn.
Do đó, khổ chế tự nó không phải là cùng
đích, nhưng luôn luôn là phương tiện và sự chuẩn bị cho những ân huệ siêu
nhiên. Những ân ban này chỉ hoàn thiện những gì đã có, đó là bản tính. Bằng
cách giải thoát chúng ta khỏi sự nô lệ với những quan niệm sai lầm của bản thân
và thế giới, việc khổ chế giúp chúng ta lớn lên trong đức tin, đức cậy và đặc
biệt là đức mến. Một khi cặp kính ích kỷ bị loại bỏ khỏi tầm nhìn, chúng ta có
được một tầm nhìn mới và bắt đầu đi vào chính thực tại. Nói tóm lại, khổ chế
đưa chúng ta đến một nhận thức cao hơn, hay như các Phật tử thường nói, đó là
chánh niệm. Điều này chúng ta có thể thấy rõ nhất nơi trẻ em, chúng nhìn thấy
những điều bí ẩn mà người lớn đã quên từ lâu: chúng vẫn kinh ngạc khi nhìn một
con ngựa, cảm thấy thích thú về hình dạng của chiếc chìa khóa và khi nghe bông
tuyết rơi. Khổ chế dẫn đến sự chú ý — hướng chú ý đến mầu nhiệm trung tâm của
cuộc đời chúng ta - Thiên Chúa. Simon Weil đã tóm tắt một cách tuyệt vời rằng
“lời cầu nguyện gồm sự chú ý. Đó là định hướng tất cả sự chú ý mà linh hồn có
thể hướng tới Thiên Chúa. Chất lượng của sự chú ý phụ thuộc rất nhiều vào chất
lượng của lời cầu nguyện. Sự ấm áp của trái tim không gì có thể bù đắp được.”
Mùa Vọng là một lời mời gọi để chúng ta
rộng mở tâm trí trước mầu nhiệm Nhập Thể vĩ đại. Nếu được như thế, chúng ta dễ
dàng tiếp nhận Thiên Chúa và việc Ngài nhập thể trong chúng ta.
Lm. Giuse Nguyễn Thanh Phong chuyển ngữ
(giaophannhatrang.org
03.12.2021 / nd.edu)
Dựa trên nghiên cứu của triết gia
Đức Hans-Eduard Hengstenberg, học trò của Max Scheler, và bản thân ông cũng là
thầy của một triết gia Công giáo nổi tiếng Robert Spaemann.
Simone Weil, “Reflections on the
Right Use of School Studies,” in Waiting on God (London, Fontana Books, 1959),
66-76