Để hiểu đúng đắn chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XVI này, "Cho một Giáo hội đồng hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ" (Per una Chiesa sinodale: comunione, partecipazione e missione) cần tìm thấy ý nghĩa trong tập tài liệu "Tính đồng hành trong đời sống và trong sứ vụ của Giáo hội" (La sinodalità nella vita e nella missione della Chiesa) do Ủy ban Thần học Quốc tế, đã được Bộ Giáo lý Đức tin phê chuẩn, với ý kiến chấp thuận của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Sau
khi hiểu đúng ý nghĩa của tính đồng hành của Giáo hội, bài xin quay trở khảo
sát việc sử dụng từ ngữ "hiệp hành". Điều được nhận thấy là Giáo hội
Việt Nam đang hình thành một văn hóa hiệp hành, mà việc sử dụng từ ngữ này đang
khá lộn xộn, không hợp nghĩa và đang trên đà nẩy nở.
Bài
không có ý bài bác, nhưng có ý tìm sự thật, để tránh và phòng ngừa những tai hại
có thể xảy đến. Xin những vị viết lách, những vị rao giảng, những linh mục tu
sĩ và những giáo dân nhiệt thành xem xét lại chữ "hiệp hành" và cách
sử dụng nó.
1. MỘT GIÁO HỘI ĐỒNG HÀNH
1.1. Tính đồng hành (sinodalità): ý
nghĩa
UBTH giải
thích một cách ngắn gọn như một định nghĩa của tính đồng hành trong Giáo hội:
Tính đồng hành (La sinodalità), trong bối cảnh Giáo hội học này, chỉ cung cách sống và hoạt động (modus vivendi et operandi) riêng biệt của Giáo hội Dân Chúa biểu lộ và thực hiện cụ thể bản tính hiệp thông của mình (il suo essere comunione) trong việc bước đi cùng nhau (nel camminare insieme), trong việc tụ họp nhau và trong sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên trong sứ vụ Phúc âm hóa (Số 6).
Hãy
xét mệnh đề: "Tính đồng hành" chỉ cung cách sống và hoạt động (modus vivendi et operandi) riêng biệt của
Giáo hội".
UBTH
đã dùng cụm từ Latinh: modus vivendi et
operandi, trong đó có danh từ là modus,
có nghĩa là manner, method, way: cung
cách, cách thức, lối, đường lối. Ở đây xin dùng chữ "cung cách".
Vậy
"Cung cách sống và hoạt động riêng biệt" của Giáo Hội đó có gì đặc biệt?
Đó là:
[...] biểu
lộ và thực hiện cụ thể bản tính hiệp thông của mình trong việc bước đi cùng
nhau (nel camminare insieme), trong
việc tụ họp nhau và trong sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên trong
sứ vụ Phúc âm hóa.
Vậy
cái cung cách hay cách thức sống mang "tính đồng hành" chính là cung
cách sống biểu lộ và thực hiện cụ thể (manifesta
e realizza in concreto) "bản tính hiệp thông" (il suo essere comunione).
Ý niệm xuyên suốt hay nồng cốt của "tính
đồng hành" chính là tính "hiệp thông" của Giáo hội. Theo định
nghĩa trên, sự hiệp thông này được thể hiện và thực hiện một cách thực tiễn:
-
Trong việc bước đi cùng nhau (nel
camminare insieme)
-
Trong tụ họp nhau (nel radunarsi in assemblea)
-
Trong tham gia tích cực vào sứ vụ (nel
partecipare attivamente alla sua missione evangelizzatrice).
Như vậy,
có thể nói tóm tắt:
Một
Giáo hội đồng hành (Una Chiesa sinodale) là một Giáo hội biểu lộ và thực hiện
"tính hiệp thông" của mình một cách thực tiễn trong việc cùng nhau
tham gia tích cực vào sứ vụ Phúc âm hóa của mình.
1.2. Tính hiệp thông
Hiệp
thông là yếu tố chủ chốt trong tính đồng hành của Giáo hội. Vậy cần phải tìm hiểu
cho đúng ý nghĩa của tính hiệp thông.
Chữ "hiệp
thông" (koinonía, communio) thoạt
tiên làm chúng ta nghĩ đến sự thông hiệp về tình cảm, bác ái, cứu giúp.... Tuy
nhiên, nó còn có ý nghĩa sâu xa hơn rất nhiều, mà chính Công đồng Vatican II
khai triển và giảng dạy. Đây là một từ nhà đạo, cần tìm ý nghĩa của hiệp thông
trong Kinh Thánh, Thánh Truyền, truyền thống Giáo hội.
Tân Ước
dùng từ hiệp thông (koinonía)19 lần
(14 lần trong thư Thánh Phaolô) để chỉ: dây liên lạc bác ái của một cộng đoàn,
thể hiện qua việc quyên góp để giúp một cộng đoàn khác (x. 2Cr 9,13); mối hiệp
thông với Ðức Kitô (x. 1Cr 1,9) qua việc thông phần những khổ đau của Ngài (x.
Pl 3,10), cùng qua Lễ Bẻ bánh, dự phần vào Thân thể Chúa Kitô” (x. 1Cr 10, 16);
và mối “hiệp thông” với Chúa Thánh Thần (x. 2Cr 13,13).
Do đó,
ngoài sự thông hiệp về tình cảm, bác ái, cứu giúp, sự hiệp thông chính yếu là sự
chuyển thông hay thông hiệp "sự sống" và "ân sủng" của
Thiên Chúa cho con người và giữa con người với nhau.
Ở trần
gian này, các Kitô được hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau một cách rõ rệt
và mật thiết nhất là trong Hiến tế Thánh Thể (Thánh Lễ). Các tín hữu khi tham dự
Thánh Lễ, với tư cách tư tế cộng đồng họ hiệp thông với Hiến tế của Đức Giêsu
Kitô để dâng lên Thiên Chúa Cha hiến lễ vô song, mang lại ơn cứu độ cho toàn thể
nhân loại. Người tham dự Thánh Lễ lãnh nhận chính Mình Máu Chúa, còn gọi là hiệp
lễ, để hiệp thông chính sự sống và ân sủng của Thiên Chúa và rồi để họ hiệp
thông với nhau sự sống thần linh và ân sủng đó.
Căn
nguyên sâu xa nhất của hiệp thông được thấy trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, được
Thánh Phaolô Tông đồ truyền dạy. Ngài nói: Chúa Cha giải hòa tất cả mọi người với
nhau trong một thân thể nhờ Thánh Thần (x. Ep 2,11-18); Ðầu của thân thể là Ðức
Kitô (x. Ep 1,22). Vì sống chung trong một thân thể, nên mọi chi thể đều liên hệ
mật thiết với nhau, những bổn phận đối với nhau đều phát sinh từ đó; Thánh
Phaolô dạy: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau; nếu một phận
nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1Cr 12,26).
Giáo hội
học hiện rõ với ý nghĩa "hiệp thông", được nói đến trong sách Tông đồ
Công vụ: Các kitô hữu hiệp thông với nhau về cả tinh thần lẫn vật chất, qua việc
cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa (x. Cv 2, 42). Hoặc như trong thư của
thánh Gioan Tông đồ, hiệp thông là kết quả của đức tin, làm cho các kitô hữu hiệp
thông với Chúa Cha và Chúa Con, cũng như với nhau ở trong Ngài (x. 1Ga 1,1-4).
Trong
Giáo hội, ngay từ thời các Giáo Phụ, hiệp thông đã được dùng với hai ý nghĩa,
là hiệp lễ (x. Gioan Kim Khẩu , In
Joannem homilia 47, 3-4.) và cộng đồng Hội thánh (x. Augustinus , De unitate ecclesiae contra donatistas,
20, 56). Vì vậy, khi bị vạ “tuyệt thông”, tín hữu bị dứt quan hệ với Giáo hội
và đồng thời bị cấm chịu Lễ. Cho nên, hiệp thông mang ý nghĩa vừa là bí tích vừa
là sự cứu độ. Ngoài ra, trong Giáo hội cũng đã xuất hiện thành ngữ communio sanctorum, nghĩa là "các
Thánh thông công" từ khoảng những năm 420. Tín điều này giúp chúng ta nhận
ra các tín hữu trên Thiên đàng, ở Luyện ngục và trần thế đều hiệp thông hay
chuyển thông ân sủng cho nhau.
Giáo hội
phát sinh và là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông tuyệt đối của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Các tín hữu vì cùng có một niềm tin vào Lời dạy của Chúa Con, và nhờ nhận
ân sủng của Thánh Thần, trở nên con cái của cùng một Chúa Cha. Và nhờ được
thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, các phần tử của Hội thánh mới có thể hiệp
thông với nhau thực sự.
Thánh
Gioan viết: “... để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng
tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Ðức Giêsu Kitô, Con của Người” (1Ga
1,3).
UBTH,
dựa vào các văn bản Công đồng Vatican II, cho thấy tính đồng hành của Giáo hội
có cơ sở trên sự hiệp thông của Chúa Ba Ngôi: "Giáo Hội tham dự vào Đức
Kitô Giêsu và nhờ Chúa Thánh Thần, vào đời sống hiệp thông của Ba Ngôi Chí
Thánh, được định sẵn để bao trùm toàn thể nhân loại" (x. Số 43).
Trong tụ họp nhau (nel radunarsi in assemblea)
Xin
hãy trở lại với định nghĩa của tính đồng hành: "Chỉ cung cách sống (modus vivendi et operandi) riêng biệt của Giáo hội Dân Chúa biểu lộ và
thực hiện cụ thể bản tính hiệp thông của mình (il suo essere comunione) trong việc bước đi cùng nhau (nel camminare insieme), trong việc tụ họp
nhau và trong sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên trong sứ vụ Phúc
âm hóa" (Số 6).
Ở đây chúng
ta thử suy nghĩ về sự hiệp thông chỉ riêng về việc tụ họp nhau (nel radunarsi in assemblea).
Cuộc tụ
họp (assemblea) thường xuyên và quan
trọng nhất diễn ra hàng ngày, mọi nơi, là tụ họp cử hành Hiến Tế Thánh Thể (Thánh
Lễ), nhờ đó Chúa Kitô chuyển thông sự sống ân sủng của Ngài cho chúng ta và
chúng ta chuyển thông cho nhau sự sống và ân sủng đó. Ngoài ra còn vô số những
cuộc tụ họp khác thuộc phụng vụ, như để cử hành các Bí Tích; đạo đức như để cầu
nguyện, lần hạt; sinh hoạt xứ đạo, đoàn
thể...
Đáng kể
nhất trong Giáo Hội là các Giám Mục tụ họp Công Đồng, tụ họp THĐGM. Chúng ta lần
này được tham gia vào THĐGM với giai đoạn thỉnh ý trước ở cấp độ giáo phận.
Chính trong những cuộc tụ họp này, không đơn thuần được hiểu là một cuộc họp
như bao cuộc họp khác trong xã hội dân sự. Chúng ta được nhắc nhở cầu nguyện,
tĩnh tâm, lắng nghe Chúa Thánh Thần, để Ngài ban sự sống, sức mạnh và những ân
sủng như khôn ngoan, hiểu biết, soi sáng
cho chúng ta nhận ra những chân lý và giúp Giáo Hội áp dụng cho cuộc sống. Đồng
thời chúng ta cũng nhận ra Chúa Giêsu đang ở cùng chúng ta, như Ngài đã phán:
"Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy" (Mt
18,19). Trong cuộc tụ họp như vậy, chúng ta được đón nhận sự sống và ân sủng của
Chúa và chuyển thông cho nhau để xây dựng Giáo hội. Và như vậy, cuộc tụ họp biểu
hiện và thể hiện hiệp thông một cách thực tiễn, một cuộc họp của một Giáo hội đồng
hành. Nếu thiếu vắng sự thông hiệp sự sống và ân sủng của Thiên Chúa, nó sẽ chỉ
như bao cuộc tụ họp dân sự khác, dễ dàng đi tới sự đòi hỏi dân chủ, chỉ trích
phê bình hàng giáo sĩ.
2.
NHỮNG NGUY CƠ DO CHỮ "HIỆP HÀNH"
Tại
sao lại có thể nói đến những nguy cơ? Thưa, vì hiện nay việc sử dụng từ ngữ "hiệp hành", mà ta đã dùng để dịch
"Một Giáo hội hiệp hành" (Una
Chiesa sinodale), "tính hiệp hành"(sinodalità), đã được sử dụng một cách lộn xộn, vô nghĩa, vượt ra khỏi
ý nghĩa Giáo hội học.
2.1. Nguy cơ lệch lạc hóa từ nhà đạo
Trong
tình trạng không hiểu hay hiểu sơ sơ, và thấy từ hiệp hành "cũng hay hay",
những tu sĩ, những giáo dân nhiệt tâm sáng chế ra những khẩu hiệu hay dán nhãn
"hiệp hành" một cách lộn xộn, vô tội vạ. Vô số từ ngữ nhà đạo
"hiệp hành" được thấy trên Google. Đó là chưa kể đến những câu văn có
chứa chữ hiệp hành, trong bài suy niệm, kinh cầu nguyện mang những ý nghĩa hàm
hồ, chẳng ra đâu vào đâu.
-
"Chùm ảnh hiệp hành". Vậy,
hình ảnh cũng hiệp hành? Phải chăng, những người trong ảnh là những dũng sĩ
hành hiệp, những người lương tự hỏi.
-
"Hiệp hành trên đàng thánh giá". Nó là gì, quả là không hiểu nổi!
-
"HIỆP HÀNH - ÂN SỦNG". Đây là những chữ in to trên một tấm thiệp kỷ
niệm 50 năm thành lập Giáo xứ. Vậy, phải chăng có một "nhân đức hiệp hành"
cũng như đức ái, đức khiêm ngường, đức công bình, tiết độ, dũng cảm..., hay một
loại "ân sủng hiệp hành"?
-
"Tu sĩ hiệp hành". Bên thiếu lâm có những nhà sư hiệp hành, hành hiệp.
Vậy phải chăng bên đạo hiện nay cũng có những tu sĩ hiệp hành, hành hiệp tương
tự?
-
"Giờ hiệp hành", "Ngày hiệp hành"... Vậy, phải chăng cũng
có: Tháng hiệp hành, Năm hiệp hành, Đời hiệp hành... Hiệp hành ở đây là gì? Phải chăng là một kiểu sinh hoạt, một cách
cầu nguyện, tĩnh tâm?
-
"Chùm thơ Tâm-Nguyện-Hiệp-Hành": Phải chăng thi sĩ có tâm nguyện hành
hiệp, có tâm nguyện trừ gian diệt bạo, và quyết tâm làm cho bằng được?
- Và
bài ca: "Chúng ta cùng nhau cất bước hiệp hành, một, hai, ba.... dô hò, dô
hò...".
- Ước
nguyện: "Ước gì Mình và Máu Đức Kitô cùng đồng hành với chúng ta trong
tiến trình hiệp hành".
Hiệp
hành trở thành "khẩu hiệu" của người Công giáo VN, được dùng một cách
hăng say!
Vậy,
có thể thấy một văn hóa mới của đạo Công giáo tại Việt Nam đang phát sinh, dùng
"hiệp hành" như một ý lực sống, một khẩu hiệu, hoặc như một nhãn hiệu,
được đặt vào nhiều lãnh vực tuỳ thích: Giáo hội, phụng vụ, tín lý, luân lý, tu
đức, nhân đức, chính trị, xã hội... một cách lộn xộn, sai lạc.
Và hơn
nữa, mai đây khi Đức Giáo Hoàng ra Tông huấn hậu THĐGM, nhiều nhà dịch thuật,
giảng dạy sẽ khai triển, giảng giải từ "hiệp hành". Giáo dân sẽ nhiệt
tình hưởng ứng. Vì là một đặc tính cốt yếu của Giáo hội, hiệp hành sẽ được ứng
dụng vào cuộc sống. Nó sẽ đi vào mọi ngõ ngách sinh hoạt, tạo nên một nền văn
hóa hiệp hành trong nhà đạo. Hãy thử nghĩ đến sự phát sinh từ ngữ một cách lệch
lạc, ào ạt hơn nữa:
Đã có Một Giáo
hội hiệp hành thì cũng sẽ có: Giáo xứ
hiệp hành, nhà thờ hiệp hành, nhà nguyện hiệp hành, hội hiệp hành, liên đoàn
Công giáo hiệp hành, đan viện hiệp hành, dòng tu hiệp hành, gia đình hiệp hành,
cha hiệp hành, mẹ hiệp hành,
Đã có Giới trẻ hiệp hành thì cũng sẽ có: thiếu niên hiệp hành, bà mẹ Công Giáo hiệp
hành, gia trưởng hiệp hành, học sinh hiệp hành, thiếu nhi hiệp hành, đồng ấu
hiệp hành, thai nhi hiệp hành, thân xác hiệp hành ...
Đã có Lối sống
hiệp hành thì sẽ có vô vàn hiệp hành:
Giáng Sinh hiệp hành, mùa Chay hiệp hành, ăn
năn hiệp hành, sám hối hiệp hành, ăn chay hiệp hành, kiêng thịt hiệp hành,
hãm mình hiệp hành, xức tro hiệp hành, rửa chân hiệp hành...
Lại nữa:
Thương khó hiệp hành, Thánh Giá hiệp hành,
Phục sinh hiệp hành, Lên trời hiệp hành, Hiện xuống hiệp hành, Ba Ngôi hiệp
hành, Mẹ hiệp hành, Các Thánh hiệp hành, các đẳng hiệp hành...
Thêm nữa:
Tập huấn hiệp hành, linh thao hiệp hành,
tĩnh tâm hiệp hành, nhân đức hiệp hành, từ thiện hiệp hành, gặp gỡ hiệp hành,
giao lưu hiệp hành, tình bạn hiệp hành, tình yêu hiệp hành, tình hận hiệp
hành...
Có Xuân hiệp hành, thì cũng sẽ có Thu hiệp hành, Hè hiệp hành, du lịch hiệp
hành, giải trí hiệp hành, ăn hiệp hành, ngũ hiệp hành, vui chơi hiệp hành, tắm
biển hiệp hành...
Và bất
tận:
Thưởng hiệp hành, phạt hiệp hành, treo
chén hiệp hành, xuất tu hiệp hành, sa thải hiệp hành, tranh chấp hiệp hành, thỏa
hiệp hiệp hành...
Đám cưới hiệp hành, đám tang hiệp hành, tiệc mừng hiệp hành, cười
hiệp hành, khóc hiệp hành, kết hôn hiệp hành, ly dị hiệp hành....
Sinh hiệp hành, tử hiệp hành, thiên đàng
hiệp hành, hỏa ngục hiệp hành...
Cha mẹ hiệp hành con cái, các nữ tu hiệp
hành người nghèo, hàng xóm hiệp hành hàng xóm... (Sao
mà ác thế; các nữ tu sao lại hiệp hành người nghèo!)
Giám mục hiệp hành với chính quyền, với đảng
bộ... (???)
2.2. Nguyên nhân lệch lạc
Thích "mới,
hay" hơn là thích "đúng"!
Trước
tiên, có ý tưởng cho rằng sinodalità
là từ mới, mà dịch là "tính đồng hành" thì thường quá, nên chọn dịch
chữ "hiệp hành" cho nó mới. Thêm vào đó có bài phân tích Hán Việt cho
rằng dùng chữ "hiệp" thì hay hơn chữ "cùng".
Chúng ta
cần "đúng", chính xác chứ không cần "mới hơn", "hay
hơn"; cần tìm và giải thích đúng theo Việt ngữ hơn là Hán ngữ, để mọi người
có thể hiểu. Nếu không, chúng ta có thể đi vào sự hàm hồ, thiếu logic.
Xin
trích lại nguyên văn của một cha giáo sư được đăng tải:
Theo
từ nguyên, trong tiếng Hylạp, hạn từ σύνοδος (synodus), được cấu tạo bởi giới từ
συν (với) và danh từ όδός (con đường), nó diễn tả ý nghĩa là cùng nhau tiến bước
trên một con đường. Nên từ “hiệp hành” diễn tả ý nghĩa ấy: hiệp là cùng,
và hành là con đường.
Như vậy
phải chăng: cùng, đường = hiệp, đường?
Bạn
hãy thử tưởng tượng:
Cô
giáo dạy Việt văn hỏi: Em cho cô biết "hiệp" là gì? - Thưa cô: "Hiệp
là cùng".
Cô hỏi
tiếp: "Vậy thì cùng là gì?" - Thưa cô: "Cùng là hiệp".
Cô
giáo thấy quá lạ, trong đời cô dạy tiếng Việt chưa khi nào cô lại nghe như vậy:
hiệp là cùng, cùng là hiệp!
- Ai dạy
em như vậy? - Thưa cô, cha sở dạy ạ.
Cô
giáo người lương, thương tình, ghi 3 điểm. Cô đã tính học đạo để lấy chồng đạo.
Nhưng cô nghĩ đạo gì mà lạ lùng; bây giờ quyết định không học đạo nữa!
Trong
thực tế, không lý luận đâu xa, cô giáo thấy ở "cùng" nhà với nhau,
nhưng "hiệp" với nhau thì ít mà "chống" nhau thì nhiều. Ở
chung thì đụng. Làm sao mà hai từ cùng và hiệp là đồng nghĩa với nhau được!
Nếu
thích sự đúng đắn chúng ta phải dịch đúng chữ σύνοδος (synodus) = cùng
đường = cùng đi với nhau = đồng hành.
Chúng
ta sợ từ đồng hành có ý nghĩa tầm thường chăng, vì không đủ diễn tả ý nghĩa của
một đặc tính lớn lao, cao trọng của Giáo Hội? Không sao đâu! Vì đây là một từ
biểu tượng, một hình ảnh của đoàn Dân Chúa (Giáo hội) được triệu tập (bởi Chúa)
đang cùng đi với nhau về quê Trời và Chúa cùng đi với họ. Đây như
cuộc Xuất hành mới về Đất hứa mà Thiên Chúa luôn đồng hành với họ, dưới hình ảnh
đám mây, cột lửa, Hòm Bia thánh. Còn cuộc Xuất hành đó có ý nghĩa gì, đặc tính
gì, thì ta sẽ tìm hiểu thêm. Chúng ta sẽ đi lệch hướng nếu chỉ cố gắng cắt
nghĩa đồng hành là gì, hiệp hành là gì theo mặt chữ của nó.
Chúng
ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa của "một
Giáo hội đồng hành" trong ánh sáng của Kinh thánh, Thánh truyền dưới sự hướng
dẫn của Giáo Hội, như của UBKT đã nêu ở phần đầu bài, để có thể hiểu đúng, dẫn
giải đúng và để tiếp nhận đúng Giáo huấn của Giáo hội.
Tưởng
là mới nhưng lại cũ
Một lệch
đường khác, đó là chúng ta đã chọn một từ ngữ, mà ta cho là "mới"
tương ứng với từ ngữ "mới", sinodalità,
sinodale. Thật ra, "hiệp hành"
là một từ ngữ "cũ", rất cũ, và đang sử dụng trong dân gian, không phải
là từ mới. Nó đang được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Bởi vậy, khi áp dụng
vào phạm vi đạo giáo, nó vẫn mang theo những ý nghĩa trong dân gian, khiến gây mơ
hồ, sai lệch, lộn xộn, vô nghĩa.
Chữ
"hiệp hành" có thể mang những nghĩa chỉ "hành động", có thể
kể như:
- Hiệp
nhau lại hành động. Đây là nghĩa mà tín hữu nghĩ đến nhiều nhất.
- Hành
động nghĩa hiệp, trừ gian diệt bạo, ví dụ như phim truyện "Hiệp khách giang hồ", "thiếu hiệp
hành".
Chữ
"hiệp hành" có thể mang những nghĩa du hành. Ví dụ như Hiệp
khách hành. (Đây là truyện về các cuộc phiêu lưu của Thạch Phá Thiên, xoay
quanh bài thơ "Hiệp khách hành" của thi tiên Lý Bạch).
Vì vậy,
một người lương có thể tưởng rằng bên Công giáo cũng hiệp hành, hành hiệp, trừ
gian diệt bạo.
Ngoài
ra, chữ "hành" có thể có nghĩa là hành hạ. Như một nữ tu giải thích một
cách vui đùa: Hiệp hành là hiệp lại mà
hành nhau. Chúng ta cũng không thể ngăn cản một giáo dân nhiệt tình hiệp
hành, chỉ dạy: Cha mẹ hãy hiệp hành con
cái. Các nữ tu hãy hiệp hành người nghèo.
Lẫn lộn
trong dịch nghĩa chữ sinodale
Nguyên
nhân gây lệch lạc cũng một phần do sự lẫn lộn trong chuyển dịch từ ngữ Sinodale, xuất phát từ chữ synodus. Nó có hai nghĩa khác nhau:
- Tụ họp,
hội họp, ví dụ trong process sinodale. Đây
là nghĩa cũ, đang dùng.
- Đồng
hành, ví dụ trong una Chiesa sinodale. Đây là nghĩa mới.
Hiện
nay hầu như chữ sinodale đều được dịch
là hiệp hành mà không lưu ý đến nghĩa
cũ đang dùng là tụ họp, hội họp, công nghị... Chữ process sinodale được dịch lầm là tiến trình hiệp hành, và đã được dùng nhiều, do phổ biến từ quyển Cẩm
Nang. Chính sự lẫn lộn này góp phần phát sinh ra nhiều từ ngữ lộn xộn, vô nghĩa
như: Giờ
hiệp hành, Ngày hiệp hành, Tháng hiệp hành, Năm hiệp hành, Thỉnh ý hiệp hành, Trước
ngưỡng cửa hiệp hành"...
Thử hỏi,
với chủ đề lần này là hiệp hành, process
sinodale được dịch là tiến trình hiệp
hành. Vậy với chủ đề THĐGM lần tới
là "Chung thủy hôn nhân" thì sẽ dịch là "tiến trình chung thủy
hôn nhân" hay sao?. Nếu vậy, trong Giáo hội Việt nam sẽ phát sinh những Giờ chung thủy, Ngày chung thủy, Năm chung
thủy, Thỉnh ý chung thủy, Trước ngưỡng cửa chung thủy... !!!
2.3. Nguy cơ chính trị và phản Phúc Âm hóa
Thực tế,
ngay hiện nay, ta thấy có bản tin của một Giáo phận: "CUỘC GẶP GỠ VÀ TRAO
ĐỔI MANG TÍNH HIỆP HÀNH VỚI CÁC CHỨC SẮC TÔN GIÁO TẠI...". Cuộc gặp gỡ có
sự hiện diện của Đức Giám mục giáo phận, một số linh mục và đại diện chính quyền
các cấp tỉnh Bình Dương và các anh chị em tôn giáo bạn thuộc tỉnh Bình Dương.
Mang "tính
hiệp hành" trong tựa đề trên có nghĩa là gì? Nó là sinodalità của Giáo Hội hay chăng? Khó hiểu quá! Phải chăng đã lạm
dụng từ ngữ thần học Giáo hội?
Và
trong tương lai khó có thể ngăn cản được các tín hữu nhiệt tình nhưng nhưng chưa
hiểu, đưa lên những tựa đề tương tự, ví dụ như:
"CUỘC
GẶP GỠ HIỆP HÀNH CỦA GIÁM MỤC GIÁO PHẬN VỚI THƯỢNG TỌA THÍCH ..."
"CUỘC
HỘI NGỘ HIỆP HÀNH CỦA GIÁM MỤC GIÁO PHẬN VỚI BÍ THƯ ĐẢNG BỘ TỈNH..."
"LINH
MỤC ĐOÀN LIÊN HOAN HIỆP HÀNH VỚI ĐẢNG BỘ TỈNH ...".
Các tựa
đề trên có thể sẽ xuất hiện trên báo chí, trên truyền hình và người ta sẽ hiểu
và chú giải chữ "hiệp hành" như thế nào? Quả là quá nguy hiểm!
Một
người thuộc phe phái nào đó sẽ phê bình chỉ trích Giáo hội là "hiệp" hành
với các đảng phái chính trị.
Hoặc
ít nữa, cụm từ "Một Giáo hội hiệp hành" gây cảm tưởng nơi người lương
là "một đạo đáng ngại, vì dân đạo đó hiệp nhất, đoàn kết. Vì vậy, "mình
đừng có đụng vào các người có đạo đó!".
Kinh
nghiệm ở quá khứ với những đấu tranh tôn giáo chính trị, với những giáo dân quá
khích, và nay xuất hiện những khẩu hiệu "hiệp hành", khiến cho người
lương thêm xác tín về một đạo đáng sợ: "Nếu bạn lỡ tung xe ở đó, lo mà chạy
trốn nhanh, kẻo dân có đạo nó kéo ra hiệp nhau đánh thì chết!".
Vậy phải
chăng, từ ngữ "hiệp hành" đã trở nên phản tác dụng?
Do đó,
"hiệp hành" thay vì giúp người lương xích lại gần, lại đẩy họ ra xa. Chữ
"đồng hành" lại giúp họ đến gần. Như vậy, từ ngữ được sử dụng cách
sai lầm có thể gây phản truyền giáo, phản Phúc Âm hóa.
2.4. Hiệp hành gây giảm trừ đặc tính cốt yếu
của Giáo hội
Sau
cùng, "Hiệp hành" gây một nguy cơ nghiêm trọng nhất, mà ít khi nhận
ra. Đó là làm giảm trừ đặc tính cốt yếu của Giáo hội và trong một số trường hợp,
đánh mất yếu tính của Giáo hội.
Chỉ là
hiệp
Người
tín hữu, dù được giảng giải thế nào đi nữa, thì nó cũng chỉ để lại trong tâm trí họ ý nghĩa hiệp tâm, hiệp lòng,
hiệp ý... hoặc là hiệp thông với ý nghĩa đơn sơ. Và vì thế, "hiệp"
là điều chính yếu, được tập trung vào đó, bỏ lơi sự "chuyển thông",
"thông ban" chính sự sống và ơn cứu độ của Thiên Chúa, như đã phân
tích ý nghĩa của sự hiệp thông ở phần thứ nhất của bài này.
Trong
thực tế, điều thấy khá rõ là nơi đa số những bài giảng, bài viết hầu như đưa đến
kết quả với ý tưởng "hiệp" trong tâm trí người tín hữu, đề cao sự hiệp
nhất, đồng tâm nhất trí, đồng lòng với nhau. Và nếu có đề cập đến hiệp thông
thì cũng giải thích cách đơn sơ như là chuyện chia sẻ tình cảm, thông cảm, cứu
giúp.
Xin được
lấy ví dụ nơi bài "Thất đạo hiệp hành" (Bảy “con đường hiệp hành”
trong áp dụng mục vụ, 6.12.2021).
Ngay ở
Hiệp hành kiểu thứ nhất, "Giang Nam thất quái", tác giả linh mục này đề
cao mẫu gương đồng tâm hiệp lực, viết rằng: "Ngẫm chuyện: với 7 vị sư phụ, đồng tâm hiệp lực, để suốt 18 năm
dạy chỉ 1 người cả văn lẫn võ, cả 'ngón nghề để phòng thân' và 'nghệ thuật để
làm người': đó không là một bài học đắt giá cho 'mục vụ giáo dục-đào tạo' của
chúng ta hôm nay sao!".
Tiếp đến
là Hiệp hành kiểu thứ hai: “Bóng đá tổng lực”, đề cao sự tham gia ăn ý với
nhau tạo nên một sức mạnh: "mọi cầu
thủ đều tham gia như nhau, hết mình ở bất cứ vị trí nào, công cũng như
thủ, được liên tục hoán chuyển, để làm nên một 'sức mạnh tổng hợp', toàn
đội, chứ không chú trọng hoặc ỷ lại vào một ít 'siêu sao'”.
Như vậy,
ngay từ đầu, tác giả đề cao "đồng tâm hiệp lực", "tổng lực",
"sức mạnh tổng hợp". Tác giả đã quên hay đã bỏ sót điều quan trọng nhất
của "cách sống và hành động" (modus
vivendi et operandi) đặc biệt của Giáo Hội, là làm sao "biểu lộ và thực
hiện" được tính "hiệp thông", nghĩa là, sự "nhận lãnh và
chuyển thông sự sống của Thiên Chúa và ơn cứu độ".
Đây là
một ví dụ cho thấy chữ "hiệp" của hiệp hành đã khiến cho nhiều người
rao giảng, người viết lách, tập chú vào ý tưởng "hiệp" đề cao hành vi
con người.
Nguy
cơ đồng hóa với xã hội dân sự
Khi
chúng ta chỉ chú ý đến chữ "hiệp" do từ ngữ "hiệp hành" gợi
ra, bỏ qua đặc tính chuyển thông sự sống thần linh và ân thánh Chúa, thì Giáo hội
Công giáo cũng tương tự như bao giáo hội khác, hoặc cũng tương tự như bao chế độ,
tổ chức xã hội khác; chứ không phải là Giáo hội của Chúa Kitô.
Hãy
xem, trong thời gian chiến tranh, Việt Nam có tinh thần "quân dân cá nước",
quân dân đoàn kết, hiệp lòng hiệp sức, tham gia sứ mạng, nhường cơm xẻ áo, hy
sinh cả mạng sống cho nhau để đấu tranh. Vậy có thể nói, một xã hội dân sự Việt
Nam như vậy còn có "tính hiệp hành" vượt xa Giáo hội!
Giáo hội
là nhiệm thể Chúa Kitô, có Chúa Kitô là đầu và các chi thể, luôn luôn có sự chuyển
thông sự sống thần linh cho các chi thể. Nếu không có, Giáo hội sẽ như một xác
vô hồn, như một nắm đất của nhiều hạt tuy có kết hiệp lại, nhưng không có sinh
khí của Đấng Tạo Hóa.
Trong thực
tế, các buổi tụ họp để thỉnh ý, nếu thiếu vắng nhận thức về sự chuyển thông sự
sống thần linh, ơn thánh Chúa trong cộng đoàn dân Chúa, dễ dẫn đến một sự phê
bình chỉ trích giáo sĩ, đòi dân chủ hóa Giáo hội.
3. MỘT VÒNG LẨN QUẨN KHÓ THOÁT RA
Tôi
nghĩ, đã có một vòng lẩn quẩn đã xảy ra. Một cách thực tế, chữ "hiệp
hành" đã xuất hiện và được tiếp nhận với những lý do nào đó. Có lẽ là do
chữ "hiệp" thì hay hơn, theo như một nhà Hán Việt phân tích. Có lẽ ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất là bản dịch thuật của Cẩm nang và tài liệu chuẩn bị THĐGM. Và
có lẽ chữ "hiệp hành" lại được lên ngôi, khi tập sách nhiên cứu của Ủy
ban Thần học Quốc tế được dịch ra Việt
ngữ, sử dụng từ ngữ "hiệp hành", và được giới thiệu trên Vatican News
tiếng Việt.
Một thực
tế cho thấy, các Giám mục, hầu như lo việc mục vụ, đâu có thời giờ để nghiên cứu,
các ngài thường dựa vào các chuyên viên, các học giả, các tiến sĩ, các dịch giả...
Nhưng rồi, ngược lại, những học giả, các tiến sĩ, các dịch giả... lại dựa vào
các Giám mục. Một vòng lẩn quẩn đang xảy ra và tạo ra ý tưởng chung chiếm ưu thế,
khó mà thoát ra.
Một
linh mục bạn, giáo sư, tiến sĩ Giáo luật, nói: "Mình không thích từ đó, đã
phản đối ngay từ đầu, nhưng ở trên dùng, đa số dùng, thì mình đành theo thôi,
không muốn tranh cải". Đây là một trường hợp điển hình cho biết bao nhiêu
trường hợp khác.
Bản dịch
tập tài liệu của UBTH: "La
sinodalità nella vita e nella missione della Chiesa" (Tính hiệp hành
trong đời sống và sứ vụ của Giáo hội), được Vatican News giới thiệu:
"Mở
đầu cuốn sách nói về thuật ngữ ‘hiệp hành’ trong tiếng Anh là Synodality, tiếng Ý là sinodalità, và tiếng Pháp là synodalité. Thuật ngữ này có thể dịch
sang tiếng Việt là “tính hiệp hành”, “tính đồng nghị”, “tính công nghị” hay
“tính liên hiệp’’. Tuy nhiên, để có tính đồng nhất ngôn ngữ, thuật ngữ “tính hiệp hành” được chọn để dịch cho toàn
văn bản này".
Lời giới
thiệu này cho thấy tác giả, một cha giáo sư, tiến sĩ thần học tín lý, đã dựa
vào "tính đồng nhất của ngôn ngữ" (?).
Và tác giả chọn dịch cũng vì
"thuật ngữ hiệp hành cũng được HĐGM Việt Nam chọn khi nói về Thượng hội đồng
Giám mục sắp tới". Vậy phải chăng tác giả đã dung hòa các từ ngữ khác nhau
để đồng nhất chúng và dựa vào uy tín cấp trên?
Làm
như vậy là có tình đối với việc cư xử chứ không có lý đối với việc nghiên cứu,
làm khoa học.
Các
tác giả đã dựa vào cấp trên và cấp trên có lẽ cũng dựa vào các tác giả. Cái
vòng lẩn quẩn đẩy thêm vòng lẩn quẩn!
Nếu vòng
lẩn quẩn đó đúng thì không sao, nhưng nếu nó có sai lầm, thì xin những vị hữu
trách, giáo sư, tác giả, người dịch, những vị rao giảng, những linh mục tu sĩ
và những giáo dân nhiệt thành phân định lại để tìm thấy cái đúng cái sai.
Nhưng
nếu nó là đúng thì không thể gây ra nguy cơ của một văn hóa nhà đạo lộn xộn, vô
nghĩa, như đã phân tích ở trên.
Kết luận
Giáo hội
là cộng đoàn Dân Chúa đang lữ hành cùng nhau về Nước Trời, đang thực hiện một
cuộc Xuất hành mới, "một Giáo hội đồng hành", luôn có Đức Kitô và
Chúa Thánh Thần cùng trên một con đường, chuyển thông sức sống thần linh và ơn
cứu độ của các Ngài cho Giáo hội.
Vậy
thì, nên để lại vị trí đúng chỗ của chữ "cùng" để chúng ta nhớ rằng
"Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Ngài đang
cùng đi với đoàn dân Ngài, đang "đồng hành" với Giáo hội của Ngài
trên con đường dương thế, vốn đầy gian nan thử thách.
Yếu
tính của Giáo hội, được diễn tả qua chữ "đồng hành", chính là "sự
hiệp thông được biểu hiện và thực hiện" trong các hoạt động và đời sống
Giáo hội. Mà hiệp thông ở đây, không chỉ là sự thông hiệp về tình cảm, bác ái,
cứu giúp, nhưng chính yếu là sự "chuyển thông hay thông hiệp" "sự
sống" và "ân sủng" giữa Thiên Chúa và con người, và giữa con người
với nhau, như trong Bí Tích Thánh Thể. Và như trong thư của thánh Gioan Tông đồ,
ngài nói hiệp thông là kết quả của đức tin, làm cho các kitô hữu hiệp thông với
Chúa Cha và Chúa Con, cũng như với nhau ở trong Ngài (x. 1Ga 1,1-4).
Tiếc rằng,
sự chuyển dịch Việt ngữ với từ ngữ "hiệp hành" đã và đang gây những
nguy cơ, giảm trừ hay đánh mất cái yếu tính chuyển thông sự sống thần linh này.
Cái cảm thức "hiệp", hiệp lòng
hiệp ý, hiệp sức... đã đề cao sức lực, tâm trí con người, vô tình gây nguy cơ làm
giảm thiểu cảm thức Thiên Chúa đang ở "cùng" chúng ta, Đức Kitô đang đồng
hành với chúng ta và làm giảm thiểu ý thức chúng ta cũng đang đồng hành với
nhau trong ơn sủng của Thiên Chúa.
Lm.
J.B. Lê Ngọc Dũng