
Theo Yuval Noah Harari, từ trước đến nay, khi so sánh con
người với các loài vật, chúng ta chủ yếu nhìn vào sự khác biệt trên bình diện
cá nhân. Tuy nhiên, lý do làm nên sự phát triển thần kỳ nơi con người là ở bình
diện tập thể (collective) tức là sự hợp tác, nhất là sự hợp tác ở mức độ lớn!
10.000 con khỉ đột tụ tập lại thì sẽ là sự hỗn loạn, nhưng 1 triệu con người
quy tụ ở quảng trường thánh Phêrô lại tạo nên sự hài hòa, đó là nhờ khả năng
hợp tác uyển chuyển và rộng lớn (x. Why Humans run the
World? Ted Talk, 24.07.2015): “Bí mật thành công
của Sapiens là sự hợp tác uyển chuyển rộng khắp. Chính sự hợp
tác này làm cho chúng ta trở thành chủ nhân của thế giới. Nhưng đồng thời, sự
hợp tác này khiến cho sự tồn tại của chúng ta lệ thuộc vào mạng lưới bao la của
sự hợp tác. Tiến trình này gia tăng nhanh qua nhiều thiên niên kỷ đến nỗi ngày
nay hầu như tất cả những gì chúng ta cần để sinh tồn đều được cung cấp bởi
những người hoàn toàn xa lạ. Tôi không biết cách sản xuất ra thực phẩm tôi ăn,
may vá áo quần tôi mặc, xây dựng ngôi nhà tôi ở. Tôi viết sách lịch sử, được
trả tiền và dùng tiền đó để mua 99% những gì tôi cần từ những người xa lạ”.
(Yuval Noah Harari, Sapiens : A Brief History of Humankind).
Hợp tác là một từ ‘trung tính’, vấn đề
là hợp tác để làm gì? Người ta có thể hợp tác với nhau để thực hiện những công
trình phong phú ý nghĩa nhân văn, chẳng hạn trong cơn đại dịch Covid-19, có thể
nhắc tới buổi hòa nhạc One World, together at home: kéo dài 8
tiếng, quy tụ 100 ca sĩ và nghệ sĩ hàng đầu thế giới, quyên góp 180 triệu USD
cho việc phòng chống dịch Covid-19 trên toàn thế giới. Đây là hình ảnh đẹp và
đầy sức thuyết phục về sự hợp tác. Phương tiện truyền thông hiện đại đóng vai
trò rất quan trọng vì nhờ các
phương tiện đó mới có thể thực hiện buổi hòa nhạc trong bối
cảnh phải giãn cách xã hội để phòng ngừa lây lan coronavirus. Nhưng quan trọng
hơn vẫn là động lực bên trong, tức là sự hợp tác để chữa lành nỗi đau của nhân
loại, và xây dựng thế giới tốt đẹp hơn, được diễn tả qua bài hát kết thúc buổi
hòa nhạc, Prayer, với tiếng hát của Andrea Bocelli, Celine Dion,
Lady Gaga, cùng hát từ những quốc gia khác nhau: Italia, Canada, Hoa Kỳ.
Thế nhưng người ta cũng có thể hợp tác với nhau và sử
dụng những phương tiện văn minh nhất để tàn sát, giết chóc, gây đau thương tang
tóc cho biết bao người. Chủ nghĩa khủng bố toàn cầu không phải là ví dụ điển
hình sao?
Do đó vấn đề không chỉ là hợp tác nhưng hợp tác để làm
gì. Chủ đề muốn khai triển ở đây là hợp tác để loan báo Tin Mừng, vì thế trước
hết nên đọc lại sách Công Vụ Các Tông Đồ để xem các Tông Đồ đã hợp tác thế nào
trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, và học hỏi nơi các ngài những điều cần thiết cho
hôm nay.
1. Sách Công vụ & bài học về sự hợp tác
a. Hợp tác với Chúa Thánh Thần
Sách Công Vụ mở đầu bằng mệnh lệnh truyền giáo: “Anh em
sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ
anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê,
Samari và cho đến tận cùng trái đất” (1,8). Sau đó Sách kể lại biến cố Chúa
Thánh Thần hiện xuống (2,1-11), mở đầu cho những hoạt động của các Tông đồ và
Gíao Hội sơ khai. Chúa Thánh Thần hiện diện trong mọi biến cố và quyết định
quan trọng của các Tông đồ (x. Cv 9, 31; 10,44; 11,15); cụm từ quen thuộc trong
sách Công Vụ: “Chúng tôi xin làm chứng về tất cả những điều đó, cùng với Thánh
Thần mà Thiên Chúa ban cho những ai tùng phục Người” (Cv 5,32); “Thánh Thần
cùng chúng tôi quyết định” (Cv 15,28). Cứ như thể Thánh Thần là một Ngôi Vị
‘thấy được, nghe được, sờ mó được’ đang ngồi chung với các Tông Đồ trong bàn
hội nghị! Nhờ hợp tác với Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã có những quyết định
quan trọng, chi phối và định hướng toàn bộ tương lai của Kitô giáo.
b. Hợp tác giữa các Tông Đồ trong sứ mạng loan báo Tin
Mừng
Thử nhìn vào sự hợp tác giữa các Tông Đồ
và thánh Phaolô. Đây không phải là sự hợp tác dễ dàng vì quá khứ bất hảo của
Phaolô, vốn là người ghét cay ghét đắng ông Giêsu và những kẻ theo ông Giêsu
(x. Cv 9,1-2). Các môn đệ Chúa Giêsu đều biết rõ điều đó như lời của ông
Khanania : “Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói về người này, về tất cả những điều
ác người ấy đã làm cho dân thánh Chúa tại Giêrusalem. Còn ở đây, người ấy được
các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai kêu cầu Danh Chúa” (9,13). Thế
nhưng Khanania đã vâng theo lệnh truyền của Chúa, đến gặp và chữa lành cho
Saulê và cử hành Phép Rửa cho Saulê (9,15-19). Tiếp đó sách Công Vụ ghi nhận
Saulê được Barnaba bảo lãnh, đến gặp các Tông Đồ ở Giêrusalem; “từ đó ông Saulê
cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem” (9,28).
Các Tông đồ hợp tác với nhau để giải quyết những vấn
đề mới và quan trọng khi Tin Mừng được loan báo cho mọi người chứ không chỉ
người Do Thái (Cv 15,5-29). Cụ thể là có phải làm phép cắt bì cho người ngoại
không? Phaolô, Barnaba và một vài người khác “lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và
kỳ mục để bàn về vấn đề này” (15,2). Kết thúc là lá thư của các Tông đồ trong
đó viết: “Anh em Tông đồ và kỳ mục chúng tôi… đồng tâm nhất trí quyết
định chọn một số đại biểu và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh
em thân mến của chúng tôi là ông Barnaba và ông Phaolô, những người đã cống
hiến cuộc đời vì Danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (15,22-25). Quyết định của
các Tông Đồ tại Giêrusalem có ý nghĩa hết sức quan trọng cho sự phát triển Kitô
giáo trong lịch sử. Thư Galata diễn tả cụ thể: “Phaolô được ủy thác nhiệm vụ
loan báo Tin Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như Phêrô được ủy
thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người đã được cắt bì”; nhưng chỉ có
một Đức Kitô mà thôi, “Đấng đã hoạt động nơi ông Phêrô, biến ông thành Tông đồ
của những người đã được cắt bì, cũng đã hoạt động biến tôi thành Tông đồ các
dân ngoại”. Khi hiểu được điều đó, “những người được coi là cột trụ đã bắt tay
tôi và ông Barnaba để tỏ dấu hiệp thông: chúng tôi thì lo cho dân ngoại, còn
các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì” (2,1-11).
Các ngài hợp tác với nhau vì ích chung của
Tin Mừng, vì thế khi cần thiết, các
ngài thẳng thắn góp ý cho nhau, chẳng hạn khi Phêrô tránh dùng bữa với
các Kitô hữu gốc dân ngoại, làm gương xấu cho nhiều người, Phaolô đã phê phán Phêrô trước mặt
mọi người: “Nếu ông là người Do
Thái mà còn sống như người dân ngoại, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại
phải xử sự như người Do Thái?” (Gal 2,11-14).
c. Hợp tác giữa các Tông đồ và các tín hữu
Nhà của các tín hữu là trạm dừng chân của các vị thừa sai
như thánh Phêrô ở nhà của Simon thợ thuộc da (10,6; 11,11), thánh Phaolô ở nhà
của Giuđa ở Đamascô (9,11), Aquila và Priscilla (18,3), Giustô ở Côrintô
(18,7), Giason ở Thessalonica (17,5). Cũng chính ở “nhà” của các tín hữu, các Tông
đồ rao giảng Tin Mừng cho họ và mọi người, như thánh Phaolô tóm tắt: “Anh em
biết tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em, trái lại tôi đã giảng
cho anh em và dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia”
(20,20). (Ghi chú: GH ở nhà (house church) không phải là GH tại gia
(domestic church), nhưng là gợi hứng cho các cộng đoàn cơ bản BECs và SCCs sau này).
Theo Rafael Aguire, phương cách truyền giáo của thánh
Phaolô là sau khi làm phép Rửa cho một người, ngài mượn chính nhà của họ làm
điểm gặp gỡ và cơ sở cho việc truyền giáo trong vùng (Theology Digest 32/2
(1985), 152). Hơn nữa, các tín hữu không những cho Phaolô mượn nhà để
giảng đạo mà còn giúp đỡ những phương tiện cần thiết cho hành
trình truyền giáo của ngài. Từ sự đón nhận và hợp tác này, các hành trình
truyền giáo của Phaolô đã được tiến hành, hình thành các cộng đoàn mới, và Tin
Mừng được loan báo khắp nơi (Cv 16-19), đem lại kết quả phong phú cho công cuộc
loan báo Tin Mừng.
2. Giáo Hội như là hiệp thông
Theo Hồng y Avery Dulles, những mô hình Gíao Hội đã được khai triển trong lịch sử là: (1) Giáo Hội như cơ
chế; (2) Giáo Hội như Bí tích; (3) Giáo Hội như sự hiệp thông mầu nhiệm; (4)
Giáo Hội như sứ giả; (5) Giáo Hội như tôi tớ. Mỗi mô hình đều có những điểm
mạnh và điểm yếu (x. Models of the Church). Ở đây xin tập trung vào mô hình Giáo Hội hiệp
thông.
Sách Công vụ mô tả cộng đoàn tín hữu đầu tiên là cộng
đoàn sống tình hiệp thông: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy,
luôn luôn hiệp thông với nhau (koinonia), siêng năng tham dự lễ bẻ bánh,
và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo mà chỉ
có một lòng một ý (cor unum et anima una)” (Cv 4,32). (Ghi chú: các từ
‘đồng tâm nhất trí’ hay ‘một lòng một ý’ xuất hiện khá nhiều trong sách Công
Vụ).
Về ý nghĩa thần học của
mô hình Giáo Hội hiệp thông,
Thánh Gioan Phaolo II trình bày cách vắn gọn: “Ở tâm điểm của mầu nhiệm Giáo Hội là mối dây hiệp
thông nối kết Đức Kitô Hôn phu với mọi người đã chịu Phép Rửa. Qua mối hiệp
thông sống động và ban sự sống này, Kitô hữu không còn thuộc về chính mình
nhưng thuộc về Chúa. Được kết hợp với Chúa Con trong mối dây tình yêu của Thánh
Thần, Kitô hữu được kết hợp với Chúa Cha, và từ mối hiệp thông này tuôn chảy sự
hiệp thông mà các Kitô hữu chia sẻ với nhau qua Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần”
(Ecclesia in Asia, 24). Mô hình này làm nổi bật chiều kích quy Kitô,
chiều kích Ba Ngôi, chiều kích thần khí (thiêng liêng) của Giáo Hội.
Mô hình Giáo Hội hiệp thông không phải là điều mới mẻ
trong lịch sử Giáo Hội: “Ý niệm về hiệp thông là chủ đề trung tâm trong
các thế kỷ đầu của Kitô giáo. Các vị Tiến sĩ vĩ đại của Giáo Hội, trong đó có
thánh Augustinô và thánh Tôma Aquinô, đều phát triển Giáo hội học của các ngài
chủ yếu từ giáo thuyết về ân sủng như ơn ban cộng đồng. Hơn nữa,
những nền Giáo hội học theo hướng hiệp thông rất phù hợp với giáo huấn của Giáo
Hội trong các thế hệ qua. Đức Piô XII lấy chủ đề Thân thể Đức Kitô làm tâm điểm
cho Giáo hội học chính thức trong thời của ngài, và Vatican II chủ ý đặt đề tài
về phẩm trật trong Giáo Hội – vốn được khai triển rộng trong thế kỷ 19, tùy
thuộc vào ý niệm Giáo Hội như Dân Thiên Chúa” (Avery Dulles, Ibid.)
Mô hình Giáo Hội hiệp thông được nhấn mạnh và khai triển tại châu Á:
“Các nghị phụ muốn mô tả Giáo phận như sự hiệp thông giữa các cộng đoàn quy tụ
chung quanh Mục tử… Sự hiệp thông này hàm nghĩa rằng mỗi Hội Thánh địa phương
phải trở thành điều được gọi là Hội Thánh tham gia, nghĩa là một Hội Thánh
trong đó mọi người sống ơn gọi riêng và thi hành vai trò riêng của mình…các đặc
sủng của mỗi thành viên cần được nhìn nhận, phát huy và sử dụng cách hiệu quả.
Cách riêng cần thúc đẩy sự dấn thân mạnh mẽ hơn của giáo dân, những người sống
đời thánh hiến, trong các kế hoạch và quyết định mục vụ, qua các cơ cấu cổ võ
tham gia như Hội đồng giáo xứ hoặc Hội đồng mục vụ” (Ecclesia in Asia,
25).
Mô hình Giáo Hội hiệp thông
cũng nêu cao sứ vụ truyền giáo: “Đòi hỏi thiết yếu của đời sống trong
Đức Kitô là bất cứ ai bước vào sự hiệp thông với Chúa cũng được mong đợi là
sinh hoa trái: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh
nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Vì thế người không sinh hoa trái thì không ở trong
sự hiệp thông: “Cành nào không sinh hoa trái thì Cha Thầy chặt đi” (Ga 15,2).
Hiệp thông với Chúa Giêsu đưa đến sự hiệp thông giữa các Kitô hữu, đó là điều
kiện cần thiết để sinh hoa trái; và sự hiệp thông với người khác, vốn là ơn ban
của Đức Kitô và Thánh Thần, là hoa trái tốt lành nhất mà các cành nho có thể
cống hiến. Theo nghĩa đó, hiệp thông và truyền giáo (missio) không thể
tách lìa nhau. Cả hai thấm nhập vào nhau và hàm ngậm lẫn nhau, đến nỗi hiệp
thông vừa là nguồn vừa là kết quả của truyền giáo: hiệp thông dẫn đến truyền
giáo và truyền giáo được hoàn thành nơi hiệp thông” (Ibid., 24).
Tiền đề này giúp chúng ta hiểu rõ hơn Huấn thị Cooperatio
missionalis (Hợp tác truyền giáo) (13/11/1998). Huấn thị này kế thừa và thay
thế huấn thị Quo Aptius được Đức Phaolô VI phê chuẩn năm 1969.
Mục đích của Huấn thị là: (1) Tái khẳng định những nguyên tắc giáo thuyết làm
nền tảng cho việc hợp tác truyền giáo; (2) cung cấp những chỉ dẫn cho việc hợp
tác truyền giáo; (3) cổ võ những phương cách cụ thể nhằm thúc đẩy sự hợp tác
truyền giáo.
Về mặt thần học, Huấn thị trình bày về sự hợp tác truyền
giáo khởi đi từ Giáo hội học về hiệp thông. Sau khi nhấn mạnh sự hợp tác truyền
giáo là nhiệm vụ và quyền lợi của các Kitô hữu, Huấn thị viết (chỉ trong một
đoạn văn mà 8 lần dùng từ communio): “Việc hợp tác truyền giáo phải
được phối hợp cách thích đáng trong tinh thần hiệp thông và có trật tự lớp lang
thì mới đạt được mục đích. Cũng như sự hiệp thông nơi Thiên Chúa – một Chúa mà
Ba Ngôi, thì giữa các Gíao Hội địa phương với nhau, giữa các Gíao Hội địa
phương và Gíao Hội toàn cầu, giữa các thành phần Dân Chúa, cũng cần có sự phối
hợp nhịp nhàng để có sự thống nhất bên trong và sự trao đổi hỗ tương. Sự hiệp thông
giữa các bên sẽ là sự hiệp thông hỗ tương, hay nói cụ thể hơn, là sự hiệp thông
để thực hiện hoạt động truyền giáo đặc biệt… Nét đặc trưng nhất của sự hiệp
thông trong Gíao Hội là tính cụ thể của sự hiệp thông ấy, để
rồi ai cũng có phần trong sự hiệp thông vì sự hiệp thông luôn đụng chạm tới
từng cá nhân cụ thể trong hoàn cảnh sống thật của họ” (CM số 2).
Hợp tác truyền giáo làm nổi bật “tính Công giáo” của Giáo
Hội. Mỗi Giáo Hội địa phương là Giáo Hội Chúa Kitô cách trọn vẹn, đồng thời
phải mở ra với các Giáo Hội khác. “Tất cả các Giám mục, với tư cách là thành
viên của Giám mục đoàn kế vị Tông đồ đoàn, được thánh hiến không chỉ để dành
cho một Giáo phận nào đó, nhưng là cho ơn cứu độ của toàn thế giới…
Do đó giữa các Giáo Hội (địa phương) nảy sinh tình hiệp thông và sự hợp tác rất
cần thiết để thực thi công cuộc Phúc Âm hóa trong thời đại ngày nay. Vì sự hiệp
thông đó, mỗi Giáo Hội đều chăm lo cho tất cả các Giáo Hội khác, thông tin cho
nhau về những nhu cầu địa phương, cùng chia sẻ cho nhau những gì mình có, vì
phận vụ của toàn thể Giám mục đoàn là làm cho Thân Thể Chúa Kitô được triển nở”
(Ad Gentes, 38). Vì thế, thúc đẩy sự hợp tác truyền giáo cũng có nghĩa
là thể hiện và sống đúng căn tính “Công giáo” của Giáo Hội.
Cách cụ thể, sự hợp tác truyền giáo được thể hiện qua
việc quyên góp cho các Hội Giáo hoàng truyền giáo, để rồi được phân phối cho
các nơi theo nhu cầu cụ thể trong sứ mạng truyền giáo. Sự hợp tác này cũng
cần được thể hiện giữa các Giáo phận trong một quốc gia hay vùng miền.
3. Hướng tới linh đạo và mục vụ hợp tác truyền giáo
a. Linh đạo hợp tác
- Khơi dậy ý thức truyền giáo : Hợp tác truyền giáo là sự
tham gia của các cộng đoàn Giáo Hội và từng cá nhân tín hữu vào việc thi hành
lệnh truyền của Chúa : “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
“Sự hợp tác này chính là hoa trái đầu tiên của việc làm sống lại tâm
hồn truyền giáo, tức là làm sống lại một tinh thần và sức sống thúc đẩy các
cá nhân cũng như các tổ chức và cộng đoàn của Giáo Hội mở lòng tiếp nhận trách
nhiệm chung, có ý thức truyền giáo và hướng lòng đến các dân tộc” (CM 2).
- Trong tác động của Chúa Thánh Thần: “Như thánh Augustinô giải thích, có lẽ Giáo Hội sẽ không cầu nguyện
xin Chúa ban ơn đức tin cho những người chưa biết Chúa, nếu không tin rằng
chính Chúa là Đấng điều hướng và lôi kéo tâm trí chúng ta đến với Ngài. Có
lẽ Giáo Hội sẽ không khuyến
khích con cái cầu nguyện xin Chúa ban ơn kiên vững trong đức tin, nếu không tin
rằng chính Chúa là chủ tâm hồn chúng ta. Thật vậy, nếu Giáo Hội xin những ơn này mà
lại nghĩ rằng tự mình có thể ban, thì hóa ra lời cầu nguyện của Giáo Hội chỉ là những lời lẽ
rỗng tuếch, những công thức sáo mòn chán ngắt áp đặt theo thói quen chứ không
phải là kinh nguyện chân chính” (Trích lại từ Message of Pope Francis
to the Pontifical Mission Societies, 21 May 2020). “Nếu chúng ta nhìn nhận
rằng Chúa Thánh Thần khơi lên và gìn giữ đức tin trong lòng chúng ta, thì mọi
sự thay đổi. Thật vậy, Thánh Thần đốt lên và làm cho sứ vụ của Giáo Hội được sống động, ban
cho các cá nhân những điểm nhấn và phong cách làm cho việc loan báo Tin Mừng và
tuyên xưng đức tin Kitô giáo là điều gì đó khác với những hình thái chính trị,
văn hóa, tâm lý hay tôn giáo của chủ trương chiêu dụ tín đồ (proselytism)”
(Ibid.).
- Hợp tác và hợp nhất : Sách Công vụ mở đầu bằng lệnh
truyền loan báo Tin Mừng “đến tận cùng trái đất” (1,8). Sau đó, trình thuật về
biến cố Ngũ Tuần nhấn mạnh sự kiện các dân tộc khác nhau đều nghe các Tông đồ
“dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (2,11).
Thánh Thần là Thần Khí hợp nhất và sứ mạng loan báo Tin Mừng chỉ có thể chu
toàn khi các môn đệ Chúa Giêsu hợp nhất với nhau. Thánh Phaolô diễn tả đòi hỏi
này bằng những lời tha thiết: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại
cho chúng ta niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được
hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau,
thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có
cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như
nhau” (Phil 2,1-2).
Sự hợp nhất này là sự hợp nhất từ bên trên và
từ bên trong, chứ không chỉ từ bên dưới và từ bên ngoài. Từ sự hợp
nhất này, hợp tác có nghĩa là chia sẻ trong tình hiệp thông: “Hợp tác truyền
giáo không chỉ có nghĩa là ban phát nhưng còn là nhận
lãnh. Tất cả mọi Giáo Hội địa phương, dù non trẻ hay lâu đời, đều được mời
gọi hãy cho đi và sẽ được lãnh nhận lại trong bối cảnh truyền giáo toàn cầu
này; không nên khép kín trước những nhu cầu của người khác” (MC số 20).
- Hợp tác và kenosis: “Đừng làm chi vì ganh
tị hay hư danh nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi
người đừng tìm lợi ích riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa
anh em với nhau, hãy có những tâm tình của chính Đức Giêsu Kitô, Đấng vốn dĩ là
Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa; trái lại, Người đã hủy mình ra không, mang lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân” (Phil 2,3-5).
Nền văn hóa thống lĩnh ngày nay là văn hóa quy ngã. Theo
Rabbi Jonathan Sacks, con người trong suốt lịch sử nhân loại vẫn luôn thờ
phượng ai đó hoặc cái gì đó. Trước kia là thờ phượng con sông, ngọn núi, cây cổ
thụ…rồi Ông Trời, đa thần, độc thần… rồi các thứ chủ nghĩa, chủ thuyết.. còn
bây giờ là thờ phượng cái tôi, khắp nơi đều thấy Self: selfie, self-help,
self-esteem, self-fulfillment! Rồi trong thời đại của mạng xã hội (social
media), một phương thế tuyệt hảo để kết nối tương quan mà hóa ra lại là Alone
Together (cùng nhau đấy mà vẫn một mình), (tựa đề quyển sách của
Sherry Turkle, MIT). Kitô hữu, kể cả linh mục tu sĩ, sống trong thời đại nên
cũng ít nhiều bị ảnh hưởng và tính quy ngã có thể len lỏi cả vào việc tông đồ.
“Chủ trương quy ngã (narcissism) là hệ quả của cách nhìn
thực dụng và công chức về sứ vụ. Dần dần sứ vụ trở thành chuyện của tôi, tên
tuổi của tôi, thành công của tôi, thành tích của tôi, danh tiếng của tôi và
những người theo tôi, hơn là về Tin Mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa,
tình thương của Chúa Giêsu, và những hoạt động đầy ngạc nhiên của Thánh Thần.
Và khi có được những kết quả tốt thì tính quy ngã đó dẫn đến sự tự mãn. Những
thành tích của tôi chứng tỏ rằng tôi có thể dựa vào khả năng của riêng mình.
Việc cần đến Chúa và người khác trở thành sự sỉ nhục cho năng lực vô giới hạn của
tôi. Tự mãn đào sâu tính quy ngã. Vòng xoáy này lôi người ta và cơ cấu vào một
thế giới chật hẹp của sự cô lập, vốn trái nghịch với sứ vụ. Đó là tấm kính mà
Đức Phanxicô muốn chúng ta đập vỡ” (Hồng
y Antonio Tagle, Pope
Francis reveals his passion for mission, Vatican News 1/6/2020)
b. Mục vụ hợp tác
- Hợp tác thiêng liêng: “Hợp tác truyền giáo bắt nguồn và
được thi hành trước tiên trong việc từng cá nhân kết hợp với Đức Kitô… Nhờ đời
sống thánh thiện, mỗi Kitô hữu đều có thể tham gia cách hiệu quả vào sứ mạng
của Giáo Hội” (Redemptoris Missio, 77).
- Hợp tác về nhân sự, ví dụ các Giám mục “gửi đến những
Giáo phận đang thiếu giáo sĩ một số linh mục có khả năng, muốn dấn thân trong
hoạt động truyền giáo và đã được chuẩn bị đầy đủ, để ít ra trong một thời gian,
họ thi hành tác vụ truyền giáo với tinh thần phục vụ” (Ad Gentes, 38). Tuy
nhiên Huấn thị Cooperatio missionalis cũng lưu ý cần thực hiện
sự hợp tác này sao cho tốt đẹp nhất: “phải tăng cường sự hiệp thông trong Giáo
Hội, nhưng không được vì thế mà gây trở ngại cho việc truyền giáo cho dân
ngoại, cũng như cho sự tăng trưởng của các Giáo Hội non trẻ” (MC 20). (Ghi
chú: Trong Sứ điệp gửi các GM VN Hội nghị tháng 10/2020, ĐTGM Marek Zalewski
nói tới sự phục vụ không biên giới, gợi ý về việc GH VN phải góp phần với FABC
và Tòa Thánh).
- Hợp tác về vật chất, “vận động việc quyên góp nhằm tài
trợ tùy theo nhu cầu của tất cả các sứ vụ truyền giáo” (Ibid., 38). “Trong tầm
nhìn nhất quán của Đức Phanxicô, các tặng phẩm quyên góp được nhìn như những lễ
dâng bác ái đi kèm theo việc cầu nguyện cho sứ vụ truyền giáo. Tầm nhìn này làm
cho những tặng phẩm quyên góp đó trở nên thành phần của quà tặng đức tin và sứ
vụ. Khi chân trời “quà tặng” này bị thay thế bằng những tính toán về hiệu quả
như khi điều hành một tổ chức, thì tặng phẩm trên chỉ còn là quỹ hoặc nguồn tài
chính được sử dụng, hơn là những dấu chỉ sống động của tình yêu, cầu nguyện,
chia sẻ hoa trái của lao công. Nguy hiểm là tiền bạc được vận động nhân danh
truyền giáo nhưng lại không trở thành sự diễn tả đức ái truyền giáo từ phía
người cho. Mục tiêu có thể bị thay đổi thành nỗ lực đạt đến một số tiền mong
ước, thay vì khơi dậy ý thức và niềm vui truyền giáo” (Hồng y Tagle, Ibid).
- Hợp tác trong các lãnh vực chuyên môn như giáo dục, đào tạo, truyền thông.
Kết
“Như các môn đệ trong Tin Mừng Mc 4,35, chúng ta
bất ngờ trước cơn bão khủng khiếp ngoài mong đợi. Chúng ta nhận ra mình đang ở
trên cùng một con thuyền, tất cả chúng ta đều mong manh và mất phương hướng,
nhưng đồng thời điều quan trọng và cần thiết là tất cả đều được kêu gọi cùng
chèo chống, mỗi người cần phải nâng đỡ người khác. Trên con thuyền đó… là tất
cả chúng ta. Như các môn đệ, chúng ta cùng lo lắng kêu lên ‘chúng con chết
mất’, và cũng nhận ra rằng mình không thể chỉ nghĩ về bản thân mình, nhưng chỉ
có thể cùng nhau chèo chống” (Moments of Prayer, Pope Francis, 27 March
2020).
Đức Giáo hoàng Phanxicô nói những lời này giữa quảng
trường Thánh Phêrô vắng lặng, trong cơn đại dịch Covid-19. Hãy hình dung một
cơn bão khác, cơn bão thế tục hóa đang càn quét phương Tây và lan rộng khắp thế
giới. Trong cơn bão khủng khiếp đó, thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng quả là
thách đố vô cùng lớn. Nhưng càng phải đối diện với những thách đố, các môn đệ
Chúa Giêsu lại càng ý thức rằng không thể làm một mình nhưng phải hợp tác với
nhau, trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mới mong chu toàn lệnh truyền
Chúa Giêsu đã để lại cho Hội Thánh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành
môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế” (Mt 28,19-20).
Gm.
Phêrô Nguyễn Văn Khảm
(giaophanmytho.net
27.10.2021)