Hỏi : dư luận báo chí cho rằng Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công nhận hôn nhân đồng tính và bỏ luật độc thân cho các linh mục được kết hôn. Xin cha cho biết tin đồn đó có đúng không?
Trả lời :
Là người Công giáo sống trong Giáo Hội, chúng ta không được nghe
và tin những gì Giáo Hội không chính thức loan báo hay dạy bảo. Tin đồn
bên ngoài Giáo Hội thì có nhiều nhưng đó chỉ là những tin đồn vô
căn cứ ( groundless rumors) mà thôi.
Thật vậy, từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô lên ngôi Giáo Hoàng cho
đến nay, báo chí Tây phương đã phóng đại nhiều tin giật gân, cụ thể như nội
dung câu hỏi trên đây, khiến gây hoang mang cho người tín hữu Công giáo.
Hội Nghị các Giám Mục ( synod of bishops) về Gia đình mới đây tại
Rôma, tuy chưa kết thúc bằng một quyết định chung cuộc nào , nhưng
chắc chắn đã không đề nghị lên Đức Thánh Cha một thay đổi nào về
mục đích của hôn nhân vốn đã được thi hành từ bao thế kỷ nay. Nghĩa là
các giám mục sẽ không đề nghị những gì trái ngược với giáo lý , tín lý
của Hội Thánh về bí tích hôn phối ,mà chỉ đưa ra những đề nghị nhằm tái
xác định lại hay làm sáng tỏ thêm giáo huấn của Giáo Hội về định chế hôn
nhân giữa một người nam và một người nữ để Đức Thánh Cha duyệt xét hầu đi
đến chung cuộc trong lần Hội Nghị kế tiếp vào tháng 10 năm 2015.
Như thế, chúng ta chưa thể kết luận gì về Hội Nghị các Giám mục thế giới vừa
qua về gia đình.
Tuy nhiên, chắc chắn Giáo Hội sẽ không thay đổi gì về mục đích của
bí tích hôn phối đã được duy trì từ bao thế kỷ nay, dựa trên giáo
lý căn bản của chính Chúa Giêsu như ta đọc thấy trong cácTin Mừng Thánh Matthêu
và Mác Cô sau đây :
“ … Lúc
khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì
thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình.Và cả hai sẽ thành một
xương một thit. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt 19: 4-6; Mc 10 : 6-8)
Giáo lý hiện hành của Giáo Hội cũng dạy rằng:
“ Giao ước Hôn nhân, nhờ đó một người nam và
một người nữ làm thành một cộng đoàn cho cả cuộc đời, tự bản chất nó hướng tới
lợi ích của những người phối ngẫu cũng như hướng tới việc sinh sản và giáo dục
con cái. Giao ước này đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích giữa những người đã
lãnh nhận phép rửa tội.” ( x. SGLGHCG số 1601)
Giáo luật của Giáo Hội cũng qui định rõ như sau :
“ Do giao ước hôn phối, người nam và người nữ tạo nên với
nhau một cuộc thông hiệp trọn cả cuộc sống. Tự bản tính, giao ước hôn phối
hướng về thiện ích của đôi bạn và việc sinh sản cùng giáo dục con cái. Chúa
Kitô đã nâng giao ước hôn phối giữa người đã chịu phép rửa tội lên hàng Bí Tích.”(
giáo luật số 1055& 1)
Như thế, tuyệt đối không có giáo lý hay giáo luật nào cho phép hôn
nhân đồng tính ( same sex marriage) giữa hai người nam hay hai người nữ mà một
số quốc gia –trong đó có Hoa Kỳ- đang cho phép loại hôn nhân này.Đâylà một sự
suy thoái trầm trọng về luân lý và mục đích của hôn nhân, một định chế đã
có từ lâu trong xã hội con người thuộc mọi nền văn hóa.Định chế đó chỉ nhìn
nhận hôn nhân giữa một người nam và một người nữ mà thôi.
Nhưng nay vì đạo đức suy đồi , hậu quả của trào lưu
tục hóa ( vulgarism) đang bành trướng ở khắp nơi, mà người ta muốn định nghĩa
lại hôn nhân để công nhận “ hôn nhân giữa hai người đồng tính” ( homosexual,
lesbian), một đổ vỡ to lớn về mục đích của hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập
từ đầu khi tạo dựng nên con người có nam có nữ và truyền cho
họ “ phải sinh sôi nảy nở cho thật nhiều và
thống trị mặt đất,” ( St
1: 28)
Trung thành với giáo lý của Chúa, chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao
giờ thay đổi định chế hôn nhân để bảo vệ mục đích của gia đình, một giáo hội
tại gia ( domestic church) và cũng là hình ảnh của Gia Đình trên Trời nơi Chúa
là Cha Chung của mọi con cái đã được cứu độ và đoàn tụ quanh Người trong niềm
vui và hạnh phúc vĩnh cửu.
Liên quan đến những người “ đồng tính” Giáo Hội không kỳ thị và
loại bỏ họ trong mục đích hiệp thông tôn thờ Thiên Chúa và tuyên xưng đức
tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu. Nhưng chắc chắn Giáo Hội cũng sẽ
không bao giờ cho phép hay công nhận hôn nhân đồng tính giữa hai người
nam hoặc hai người nữ như một số quốc gia đang làm vì áp lực
chính trị để chiều theo thị hiếu của những người đồng
tính muốn hợp thức hóa hôn nhân của họ.Làm như thế, họ đang phá đổ mục đich của
hôn nhân và tước bỏ quyền có cha , mẹ , có ông bà nội ngoại của con cháu. Lại
nữa, họ cũng tạo gương xấu ( scandal) cho giới trẻ khi thấy
hai người nam hoặc hai người nữ công khai sống chung với nhau như vợ chồng.
Về mặt tinh thần, những người đồng tính có thể đến nhà thờ cầu
nguyện chung với mọi tín hữu, nhưng không thể lãnh nhận các bí tích Thánh Thể
và hòa giải được vì lối sồng của họ ( sống chung như vợ chồng) không được Giáo
Hội nhìn nhận như những cặp vợ chồng đã thành hôn qua bí tích hôn phối. Và ngay
cả những cặp vợ chồng đã kết hôn hợp pháp trong Giáo Hội, nhưng nay
đã ly dị ngoài tòa dân sự mà chưa được tòa án hôn phối của giáo phận tháo gỡ
hôn phối cũ mà lại sống chung với người khác như vợ chồng, thì cũng tạm thời
không được lãnh nhận hai bí tích trên.
Tóm lại, dù Giáo Hội chưa chính thức lên tiếng về vấn đề
hôn nhân của người đồng tính , nhưng chắc chắn Giáo Hội sẽ không
bao giờ định nghĩa lại hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, vì đây là
một định chế thiêng liêng ( sacred institution) mà Thiên Chúa đã thiết lập từ
khi có con người trên mặt đất và đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích như đã
nói ở trên.
2- về câu hỏi liên thứ hai quan đến vấn đề độc thân của
hàng giáo sĩ và tu sĩ Công giáo, xin được trả lời như sau:
Kỷ luật độc thân ( celibacy) của hàng giáo sĩ và tu sĩ trong
Giáo Hội Công Giáo La mã không phải là vần đề tín lý hay giáo lý, mà chỉ
là luật của Giáo hội đặt ra vì mục đích thánh hóa và hy sinh của hàng giáo sĩ (
Giám mục, linh mục) và tu sĩ mà thôi. Kỷ luật này mới có từ thế kỷ thứ 11 cho
đến nay vì mục đích hy sinh , “sống khiết tịnh (
chaste) vì Nước Trời” như Chúa Giêsu đã phán
dạy ( Mt 19: 11-12)
Do đó, chắc chắn Giáo Hội cũng sẽ không thay đổi hay bỏ luật này
như có một số người đã vội suy đoán sai lầm.
Tuy nhiên, cũng phải nói thêm là chỉ có Giáo Hội Công Giáo La Mã
mới có kỷ luật này , trong khi ở các Giáo hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern
Orthodox Churches) thì kỷ luật này chỉ áp dụng cho hàng Giám mục mà thôi;
trong khi các linh mục có thể chọn lựa hoặc kết hôn hay không trước khi
lãnh chức linh mục. Nếu đã chọn không kết hôn khi còn là phó tế, thì sẽ không
được kết hôn sau khi là linh mục.
Iiên quan đến vấn đề này, cũng cần nói thêm là : các linh mục Anh
Giáo ( Anglican
Communion) và mục sư Tin Lành đều kết hôn. Vì thế ,sau khi họ trở
lại với Công Giáo và được thụ phong linh mục thì họ được quyền tiếp tục
sống với vợ con như cũ.Nhưng nếu sau đó vợ chết, thì không được tái
kết hôn nữa..
Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn