Sứ vụ loan báo Tin mừng bắt
nguồn từ Thiên Chúa khi sai Con của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô xuống làm người. Đức
Giê-su xuất hiện nơi trần gian nhằm để loan báo Nước Thiên Chúa đã gần đến, và
kêu gọi con người ăn năn hối cải để đón nhận ơn cứu độ. Ngang qua biết bao lời
giảng dạy cùng với các phép lạ, Đức Giê-su muốn con người nhận ra được sự hiện
diện của Thiên Chúa để con người được sống và sống dồi dào. Ở đâu có sự hiện diện
của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su là ở đó được thi ân giáng phúc. Nơi nào Đức
Giê-su có mặt là người què đi được, người câm nói được, người mù được nhìn thấy,
người điếc được nghe, người bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, ngay cả người
chết cũng được hồi sinh,…Qua đó, nhiều người đã tin nhận vào Đức Giê-su và đi
theo Ngài.
Với vai trò là Thiên Chúa
làm người, Đức Giê-su có thể làm được mọi sự và không cần sự cộng tác của con
người để loan báo Tin mừng cứu độ cho muôn người. Tuy nhiên, chúng ta đã nhận
thấy Đức Giê-su đã chọn gọi các môn đệ Ngài muốn để các ông ở lại với Ngài, rồi
Ngài sai họ đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Tin mừng hôm nay (Mc 6, 7-13)
cho chúng ta thấy việc Đức Giê-su sai các Tông đồ ra đi loan báo Tin mừng.
Nhưng để hiểu rõ hơn bối cảnh của bài Tin mừng này, chúng ta phải biết rằng làm
sao các Tông đồ được sai đi nếu trước đó không ở lại với Đức Giê-su? Làm sao ở
lại với Ngài nếu không được chọn gọi bởi Đức Giê-su?
Chính vì thế, chúng ta phải
khởi đi từ việc chọn gọi các Tông đồ. Quả thật, để tiếp nối sứ vụ loan báo Tin
mừng cho muôn dân, Đức Giê-su đã đích thân chọn gọi cho mình những môn đệ Ngài
muốn. “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các
ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người
sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ.” (Mc 3, 13-15). Chính Đức
Giê-su chủ động chọn gọi các ông như Ngài đã nói: “Không phải anh em đã chọn
Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em.” (Ga 15,16). Ngài đi bước trước để
kêu gọi cho mình những người nối nghiệp trung thành và can đảm trong việc loan
báo Tin mừng. Như vậy, chúng ta biết rằng ơn gọi làm môn đệ, ơn gọi loan báo
Tin mừng là xuất phát từ ý định của Thiên Chúa chứ không phải tự ý con người.
Chính Thiên Chúa kêu gọi và con người cần đáp trả để kế hoạch của Ngài được thực
hiện.
Thế nhưng, chọn gọi xong
không có nghĩa là đủ khả năng để thực thi sứ vụ, mà các môn đệ phải ở lại và hiện
diện với Đức Giê-su để cùng với Ngài rảo bước khắp mọi nẻo đường nhằm giúp các
môn đệ biết nhìn, biết nghe, biết yêu, biết tha thứ, biết cảm thông, biết chạnh
lòng thương, biết gần gũi với những kẻ bị coi là tội lỗi, biết thân thiện với
những mảnh đời éo le và khổ sở,…Vì thế, trước khi được sai đi, các Tông đồ phải
bắt buộc phải ở vói Đức Giê-su. Vì Ở vói Đức Giê-su, để các môn đệ học cung
cách cư xử đối với mọi người nhằm loan truyền “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến
và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Ở với Đức Giê-su để học hỏi các
nhân đức của Ngài là khiêm nhường, là hiền lành, là hy sinh, là quảng đại, là vị
tha, là bao dung, là cởi mở, thân thiện và gần gũi. Ở với Đức Giê-su để biết chấp
nhận mọi sỉ nhục, mọi đau thương, ngay cả sẵn sàng chịu chết để mưu ích phần rỗi
cho muôn người. Như thế, ở lại với Chúa là để được huấn luyện trở nên những nhà
thừa sai cứng cáp, nhiệt huyết, nhiệt thành, can đảm, và hăng say dấn thân ra
đi rắc gieo Tin mừng khắp muôn nơi.
Quả thật, sau khi đã được hướng
dẫn, được học hỏi và được huấn luyện cũng như chịu nhiều thử thách nơi Thầy
Giê-su, các Tông đồ bắt đầu đón nhận sứ vụ sai đi của Thầy mình. Như Tin mừng
hôm nay trình thuật: “Khi ấy, Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu
sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế.”
(Mc 6, 7). Đức Giê-su sai đi ‘từng hai người một’, là muốn họ có tinh thần cộng
đoàn, nghĩa là họ không làm việc đơn lẻ nhưng làm việc theo nhóm, theo anh em.
Chúng ta thấy điều đó trong Công vụ Tông đồ khi các môn đệ luôn luôn đồng hành
từng cặp với nhau: Phê-rô và Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô và Barnabe (Cv 13,
2); Giuđa và Sila (Cv 15, 22b),…Khi sai đi, Đức Giê-su cũng ban cho các Nhóm Mười
Hai một quyền năng của Ngài, đó là quyền trừ quỷ, như một trong dấu chỉ xác thực
rằng sự hiện diện của Nước Thiên Chúa giữa trần gian.
Bên cạnh đó, khi sai các
Tông đồ ra đi rao giảng, Đức Giê-su mong muốn các ông không được lệ thuộc vào của
cải vật chất, các tiện nghi nhưng hãy sống ký thác mọi sự cho Chúa và sống nhẹ
nhàng khoan thai. “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ
trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép,
nhưng không được mặc hai áo.” (c.8-9). Như vậy, người ra đi rao giảng Tin mừng
không được màng tới hoặc đòi hỏi những đồ dùng này đồ dùng kia, không phải lo lắng
cho bản thân quá nhiều, mà cần thanh thoát, bỏ đi những thứ xem ra cần thiết
cũng như không cần thiết để dễ dàng phục vụ và dấn thân cho tha nhân. Đức
Giê-su xác tín cho các ông rằng hãy hết mình khi ra đi rao giảng và hy sinh phục
vụ, mọi sự khác sẽ có Chúa và mọi người lo liệu. Vì làm thợ thì đáng được nuôi
ăn. Một sự sẵn sàng lên đường mà lòng không vướng bận là điều mà một người loan
báo Tin mừng luôn luôn phải có. Cứ dấn thân, cứ nhiệt huyết, cứ hăng say, cứ ra
đi, cứ gặp gỡ,…Chúa sẽ dùng nhiều cách thế để giúp đỡ, để an ủi và bổ túc tất cả
những thiếu thốn khác ngang qua các ân nhân hoặc các mạnh thường quân trong
hành trình sống.
Hơn nữa, Đức Giê-su còn căn
dặn các Tông đồ : “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó
cho đến lúc ra đi.” (c.10). Nói như vậy là Đức Giê-su muốn những nhà thừa
sai, những người loan báo Tin mừng đừng chọn nhà này hơn nhà khác, đừng chọn
theo sở thích của bản thân mình nhưng hãy thoả mãn và vui vẻ chấp nhận sự chật
hẹp hay khó khăn nơi gia đình, nơi làng xóm mà mình được sai đến. Thật vậy, theo
bản tính con người, ai ai cũng thích chỗ sung sướng, thoải mái, ăn ngon mặc đẹp,
phòng ốc đàng hoàng, có điều hoà khi thời tiết nóng, có nóng lạnh khi mùa đông
đến,…nhưng theo Đức Giê-su, một khi đã được sai đi rao giảng Tin mừng, chúng ta
không màng tới điều đó nhưng biết hội nhập tất cả cũng như chịu đựng những khó
khăn nơi vùng miền được sai đến.
Điều đặc biệt các Tông tồ cần
hướng đến là đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối để được ơn tha tội
và được hưởng ơn cứu đội của Thiên Chúa. Ngang qua việc trừ quỷ, xức dầu cho
nhiều người đau ốm và chữa lành các bệnh nhân, các Tông đồ dễ dàng giới thiệu
cho mọi người biết về tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa cũng như Lòng thương xót
của Ngài. Cũng vậy, nơi người loan báo Tin mừng ngày hôm nay cũng được mời gọi
hãy sống bằng chứng nhân, bằng những việc làm cụ thể là bác ái yêu thương, là
hy sinh phục vụ các bệnh nhân, người già cả neo đơn, là tiếp đón người nghèo mà
không phân biệt lương giáo, hay sắc tộc. Qua những việc làm cụ thể và thiết thực
đó, chúng ta đang thu hút và cảm hoá nhiều người biết về đạo yêu thương, đạo của
Chúa Giê-su. Quả thật, Đức Thánh Cha Phanxico đã nhấn mạnh điều đó rằng Giáo hội
phát triển không phải bằng chiều dụ nhưng bằng sức thu hút. Như vậy, Đức Giê-su
mong muốn mỗi người hãy là muối, là ánh sáng cho trần gian (x.Mc 9, 50; Lc 14,
34-35) ngang qua cách sống yêu thương và tha thứ của chúng ta.
Quả thật, ơn gọi trở nên chứng
nhân của Chúa cho con người ngày hôm nay là ơn gọi phổ quát, tuy nhiên, có những
người đặc biệt đã được chọn gọi, được huấn luyện tại các trường Đại chủng viện,
học viện, tu viện để trở nên những thừa sai đích thực, chuyên môn và nhiệt huyết
nhằm ra đi lan toả Tin mừng cho mọi người ở khắp mọi nơi. Điều quan trọng mà
Chúa Giê-su mong muốn là ai được sai đi dấn thân phục vụ Tin mừng và giới thiệu
tình yêu Thiên Chúa cho muôn dân thì tiên vàn phải là người cầu nguyện, là người
có đủ ơn Chúa, đủ sức mạnh từ Chúa; là người thanh thoát với của cải vật chất để
chủ tâm cho công việc loan báo Tin mừng; là người sống nối kết với anh chị em
mà không ích kỷ hay riêng rẽ; là những chứng nhân đích thực ngang qua cách sống
vui vẻ, cởi mở, thân thiện, quảng đại, vị tha và đượm tình bác ái yêu thương.
Linh mục Phaolô Phạm Trọng
Phương