22/5 Chúa Nhật thứ Sáu Mùa Phục Sinh (Cv 15:1-2,22-29; Tv 67:2-3,5,6-8; Kh 21:10-14,22-23; Ga 14:23-29)
Câu nói: “Xa mặt cách lòng” tiết lộ một
sự thật chua chát của lòng con người. Khi xa nhau thì người ta dễ quên nhau.
Bao nhiêu đôi vợ chồng đỗ vỡ vì sống xa nhau. Bao nhiêu con cái xa cha mẹ, thì
dễ thành bất hiếu, bất nhân, bụi đời, hư hỏng. Bao nhiêu đầy tớ khi chủ vắng
nhà thì như gà mọc đuôi tôm. Đúng như dụ ngôn đầy tớ bất trung (Mt. 24, 48-51)
Chúa Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ
khỏi lâm vào cảnh đau lòng xa mặt cách lòng, nên trước khi về trời, về cùng
Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện
xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để xa mặt, nhưng
không cách lòng.
Và rồi ta thấy sợ hãi là kinh nghiệm mà
chúng ta vẫn thường hay có. Người trẻ sợ tuổi già mau đến. Thanh niên khỏe mạnh
sợ lúc bệnh tật hay ốm đau. Đôi trai gái yêu nhau say đắm sợ những giây phút ân
ái mặn nồng vụt tan biến. Người giàu sợ sẽ đến ngày khách kiệt…
Nói chung, có muôn vàn lý do để phải sợ
hãi. Khi đối diện trước cái chết, chính Chúa Giêsu cũng sợ. Sự sợ hãi dâng lên
tột độ đến mức mồ hôi và máu toát ra. Ngài đã lớn tiếng và rơi lệ cầu xin với Đấng
có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7), vì Ngài lo sợ, nỗi sợ theo bản tính tự
nhiên của con người. Ngài sợ, vì tội lỗi của cả trần gian đang đè nặng trên đôi
vai Ngài và cuối cùng dẫn đến cái chết nghiệt ngã. Nhưng khi từ cõi chết sống lại,
Chúa Giêsu đã trở thành nguyên lý cho chúng ta về sự bình an để thoát vượt sợ
hãi. Khi hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đến giữa lúc
các ông đang ngồi co rúm lại vì sợ sệt. Chúa thổi hơi vào các ông, ban Thánh Thần
và trao chúc bình an.
Thánh Gioan nêu ra tất cả những chi tiết
này để liên kết sự bình an với ân điển của Thần khí, hầu giúp chúng ta thoát vượt
sợ hãi. Ngài còn cho các môn đệ thấy những dấu chứng về cuộc khổ nạn nơi thân
xác Ngài, và đó cũng là vết tích gây nên sự sợ hãi nơi các tông đồ trước đây.
Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an
cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các
con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi.” Những lời này Ngài nói giữa bữa Tiệc
ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy
hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình
an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên
Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần
và sắp giết chết Ngài.
Sống theo ý Chúa thì con người không còn
sợ hãi, vì khi làm bất cứ việc gì thì có Chúa cùng thực hiện, khi chọn Chúa là
chủ của mình, chúng ta không còn bị dính bén bởi những tạo vật, không bị nô lệ
bởi những đam mê bất chính. Sống theo ý Chúa còn là mình để chọn Chúa. Đó là bỏ
đi cái tôi ích kỷ sống yêu thương, bỏ đi cái tôi danh vọng để khiêm tốn để chấp
nhận mình và đón nhận người khác, bỏ đi cái tôi hưởng thụ để hy sinh để phục vụ.
Hơn nữa, sống theo ý Chúa thì không sợ những dư luận của người đời, không bị
chi phối bởi khen chê, được mất, sướng khổ và sống chết.
Con người ta ai cũng muốn có bình an
trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình
an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi
mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có
khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta.
Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục
thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi
linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của
Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng
là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho
mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi
người và cho toàn xã hội.
Bình an không phải giống như yên ổn, vì
yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một
tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng
của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy
vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời.
Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề
rắc rối chưa giải quyết được.
Muốn được bình an hạnh phúc thật, con người
cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải,
biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy
chúng ta noi theo bắt chước.
Khi trong tâm hồn có sự bình an của Chúa
Giêsu Phục Sinh, thì chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình, dễ dàng
cảm thông với những người không yêu mến, sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử
chỉ thái độ của mình… Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc
bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa
Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Chúa nói hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, sẽ
giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại
trong người ấy”. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch để có được bình an. Chân lý
này cũng được Thánh Phanxicô Salê quảng diễn khi Ngài nói với chúng ta: “Ama et
fac quod vis”, bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm.
Lm. Anmai CSsR