1/. Những định kiến và những cảm thức lệch lạc về
dung mạo của Thiên Chúa.
Đối với nhiều người, kể cả một số lớn tín hữu, Thiên Chúa vẫn
còn là một Đấng rất xa lạ, Đấng chưa được biết đến, Đấng vô hình, vô biên đáng
sợ. Đối với một số người khác Đấng ấy được coi như một Ông Chủ cứng ngắc, cứ
đòi phải công bằng và đôi khi đòi hỏi đến độ tàn ác! Một số người khác cứ khăng
khăng đổ trút trách nhiệm lên Thiên Chúa về những đau khổ mà họ phải gánh chịu.
Họ cho rằng chính Ngài chứ không ai khác, đã gởi gian khổ đến cho họ. Một số
người khác lại trách rằng chính vị Thiên Chúa vì quá nghiêm khắc đã gởi đến cho
họ những thử thách quá sức chịu đựng... Tóm lại, mọi bất mãn của con người đều
đổ lên đầu Thiên Chúa. Họ trách cứ Thiên Chúa và đôi khi ngang nhiên tỏ ra thù
nghịch với Ngài. Chả ai dám tìm cách sống thân mật với Ngài, và cũng chả ai dám
gọi Ngài cách thân ái là Abba : Cha. Cho dù chúng ta không biết, không hiểu,
đôi khi còn trách cứ hoặc nghi ngờ...nhưng chính Vị Chúa Tể tối thượng ấy chủ
yếu sống bằng tình phụ tử, luôn thực sự hướng dẫn mọi sự với
tấm lòng hiền phụ. Qua vũ trụ vạn vật, qua Thánh Kinh, qua các tiên tri và nhất
là qua chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã tỏ mình ra cho người ta
biết Ngài thật sự là một người Cha giàu lòng xót thương. Qua các sách Tin Mừng,
ta thấy rõ Đức Kitô rất quan tâm đến việc nói về Cha và giới thiện Cha cho
chúng ta. Đức Giêsu đã không ngừng giảng về Cha, tỏ cho người ta thấy mọi sự
bởi Cha mà ra và sẽ trở về với Cha. Tuy nhiên, đối với những con người hữu
hình, thật không phải dễ để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa vô
hình. Ngay đến các Tông Đồ, những người môn đệ thân tín, luôn sống cận kề bên
Đức Giêsu, luôn được nghe Đức Giêsu nói về Cha, nhưng họ cũng có cảm tưởng
giống như những người khác, đó là, Vị Thiên Chúa mà Đức Giêsu thường gọi và dạy
cho các Tông Đồ cũng gọi là Cha, dường như người Cha ấy luôn dấu mặt, và họ
luôn khao khát một điều : đó là được trông thấy Cha (x. Ga 14,8).
Nỗi khát vọng của Philipphê cũng là nỗi khát vọng của những Tông Đồ khác và có
lẽ cũng là nỗi khát vọng của mỗi người chúng ta, một khát vọng thật chính đáng.
Đức Giêsu đã không từ chối lời xin của Philipphê, Ngài đã chỉ cho Philipphê và
qua Philipphê cho mỗi người chúng ta, cách thế để nhận ra Chúa Cha : "Ai
thấy Thầy là thấy Cha rồi" (Ga 14,9). Philipphê đã
thấy Cha rồi mà chẳng ngờ là mình đã thấy. Các Tông Đồ khác cũng vậy. Có thể
nói nhìn đâu, các ông cũng thấy Cha trên trời tỏ mình ra, xuất hiện một cách rõ
ràng nhất, thế mà các ông không nhận ra Ngài. Tình trạng của nhiều người ngày
nay cũng thế. Ở mọi nơi, họ thấy Cha biểu lộ lòng nhân hậu, nhưng họ chẳng nhận
ra được. Trong thâm tâm, cũng như Philipphê, họ ước ao Cha tỏ mình ra, cụ thể
hơn và gần gũi hơn. Họ không ngờ rằng niềm ao ước của họ đã được toại nguyện.
Chỉ cần nhìn vào Đức Kitô trong Phúc Âm là họ có thể thấy hiện lên dung mạo của
Cha đằng sau những công việc, những cử chỉ và qua những lời Đức Giêsu giảng
dạy. Cha đã đến với chúng ta, hiện diện giữa chúng ta qua chính Con của Người.
Ngay cả khi chúng ta cho rằng Ngài vẫn xa lạ, nghiêm khắc hay cả đến tàn bạo đi
nữa, Ngài vẫn hiện diện giữa chúng ta, ở liền với chúng ta để phủ nhận cái
thành kiến ta có về Ngài. Qua Thánh Kinh, ta sẽ khám phá ra rằng, Vị Thiên Chúa
toàn năng hằng hữu luôn ở gần bên chúng ta. Ngài quá gần gũi và dễ tánh, nhưng
cũng thật cao cả trong cách cư xử như một Chúa Cha[1].
2/. Thiên Chúa, Cha nhân từ.
a/. Thiên Chúa là người Cha yêu thương trong
công trình sáng tạo.
Qua công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên con người rất
đặc biệt : Ngài dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài (x. Kn 1,27).
Con người được chính Thiên Chúa dựng nên một cách rất đặc biệt hơn các sinh vật
khác ở chỗ các sinh vật loại I chỉ sống theo bản năng và nhờ bản năng. Riêng
con người, ngoài bản năng, con người con được Thiên Chúa ban cho những đặc tính
mà chỉ có loài người mới có đó là lý trí, ý chí và tự do. Chính vì có lý trí, ý
chí và tự do, nên con người phải chịu trách nhiệm về tất cả các ý tưởng lời nói
và việc làm của mình. Những ý tưởng, lời nói và việc làm của con người, nói
cách chung đó chính là hành vi nhân linh. Hành vi nhân linh của con người có 3
mức độ khác nhau : hành vi nhân sinh (theo bản năng và có chung với các sinh
vật khác); hành vi nhân linh (chỉ có nơi con người) và hành vi siêu linh. (Thí
dụ : ăn). Mỗi một con người phải chịu trách nhiệm về sự chọn lựa tự do của mình
cụ thể qua những hành vi nhân linh của mình. Hành vi tốt sẽ mang đến hiệu quả
tốt, còn hành vi xấu sẽ lãnh lấy hậu quả xấu. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại,
chính sự lạm dụng tự do của mình mà con người đã để tội len lỏi vào thế gian và
làm thiệt hại nghiêm trọng chương trình tạo dựng của Thiên Chúa tình yêu. Khi
dựng nên con người, Thiên Chúa đã an bài cho họ mọi sự tốt lành, nhưng chính vì
lạm dụng tự do mà con người đã tự hại mình (x. Kn 3,1-11).
b/. Thiên Chúa là người Cha nhân từ.
"Tỏ ra nhân từ được coi là điểm riêng
biệt của Thiên Chúa, và nhờ đó Ngài bày tỏ sự toàn năng của mình hơn cả"[1]. Đó chính là điều mà thánh Tôma đã cảm nhận. Sự tha thứ và
lòng nhân từ là hành vi tối thượng của sự toàn năng của Thiên Chúa. Ngay từ lúc
nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tỏ ra là người Cha nhân từ. Ngài đã tha thứ
cho con người và cũng đã hứa ban cho con người Ơn Cứu Độ (x. Kn 3,15).
Lòng nhân từ của Thiên Chúa đã trãi rộng suốt thời Cựu Ước. Trong các bài ca
cầu nguyện, kêu khấn và tạ ơn, Thiên Chúa được xưng tụng là "sự âu
yếm và xót thương" (Tv 111,4). Ngoài ra, Thiên Chúa
thường được ca tụng là Đấng nhân từ và tốt lành :
"Chúa dịu dàng và thương xót,
Chậm giận và đầy tình yêu,
Chúa tốt lành với hết mọi người,
Chúa âu yếm mọi loài Ngài đã dựng nên" (Tv 145,8-9).
Các tác giả Thánh Vịnh tuyên dương lòng nhân từ chứa chan của
Chúa bằng nhiều hình ảnh rất sống động (x. Tv 103,8,11-13; Tv 145,14; Tv 146,7-9).
Trong khi Cựu Ước mô tả lòng nhân từ của Thiên Chúa bằng nhiều
cách khác nhau, bằng nhiều thái độ và nhiều hình ảnh, thì Tân Ước lại tập trung
toàn bộ việc bày tỏ lòng nhân từ của Thiên Chúa nơi thân thế và sự nghiệp của
Chúa Giêsu Kitô : "Xưa kia, sau khi nhiều lần nhiều cách nói với
cha ông nhờ các ngôn sứ, trong những ngày sau hết này, Thiên Chúa đã nói với
chúng ta nhờ Chúa Con" (Dt 1,1-2). Trong Tân
Ước, Đức Giêsu luôn mặc khải cho con người về lòng nhân từ của Chúa Cha. Đức
Gioan Phaolô II đã tóm tắt điều đó như sau : "Chúa Kitô mang đến
cho truyền thống Cựu Ước về lòng nhân từ của Thiên Chúa ý nghĩa trọn vẹn. Ngài
không chỉ nói nhưng còn minh họa và giải thích bằng nhiều hình ảnh và dụ ngôn,
mà nhất là Ngài còn nhập thể và ngôi vị hóa lòng nhân từ ấy nữa. Việc nhập thể
của Ngôi Lời không phải chỉ là công việc của tình yêu Thiên Chúa (x. Ga 3,16),
nhưng cũng là mạc khải tột đỉnh về lòng nhân từ của Thiên Chúa đã trở thành một
ngôi vị"[1]. Thật vậy, việc Chúa Kitô đến trần gian, từ
lúc sinh ra tới khi sống lại, là chân dung hoàn hảo nhất về lòng nhân từ của
Thiên Chúa Ba Ngôi. Những dụ ngôn về lòng nhân từ mà Chúa Giêsu sử dụng để loan
báo lòng nhân hậu của Thiên Chúa là những hình ảnh rất sống động : con chiên đi
lạc và được tìm thấy, đồng tiền rơi mất và nhặt lại được, người con đi hoang và
được đón nhận lại trong vòng tay rộng mở của người Cha nhân hậu và đầy lòng xót
thương (x. Lc 15).
c/. Thánh Kinh cho thấy Chúa là Cha nhân
từ mà dân Chúa lại bội bạc.
Thánh vịnh 77 (78) đã tóm tắt lịch sử của dân Israel, một lịch
sử đầy dẫy những bội phản và bất trung, bất hiếu của dân được tuyển chọn đối
với Thiên Chúa là Đấng luôn trung thành.
"Đừng như thể cha ông,
nòi ngoan cố phản loạn,
nòi tâm địa thất thường,
dạ bất trung cùng Chúa
.....
họ không giữ giao ước với Chúa Trời,
và chẳng chịu sống theo luật Chúa,
đã quên đi những việc Người làm,
những kỳ công Người đã cho chứng kiến.
...
Nhưng dân lại càng phạm tội mất lòng
Chúa,
phản nghịch cùng Đấng Tối Cao tại miền
hoang địa;
họ chủ tâm thách thức cả Chúa Trời,
đòi được ăn cho vừa sở thích.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu sắc tình trạng bất trung
bất hiếu của dân Israel. Ngài nhắc nhở cho bà con thuộc giáo đoàn Corintô, hãy
nhìn vào gương của dân Israel như một bài học quý giá mà rút kinh nghiệm cho
chính bản thân mình : "Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn
dạy chúng ta" (1Cr 10,6). Lịch sử của dân Israel phải
chăng cũng là lịch sử của mỗi con người chúng ta ? Chúa luôn trung thành, còn
chúng ta thì lúc vầy lúc khác. Chúng ta cứ sa đi ngã lại trong tội lỗi của
mình. Kinh nghiệm của dân Israel giúp cho hiểu rằng tội chính là một sự vi phạm
: vi phạm lệnh truyền hoặc vi phạm những lề luật nào đó.
d/. Lòng nhân từ của Thiên Chúa muốn cho
tội nhân hoán cải để được sống.
(1) Thánh Kinh Cựu Ước : sám hối là một trong những bổn phận chính của con người
và phải cố gắng chu toàn suốt đời. Việc sám hối gồm có việc chay tịnh (x. Ge 3,7)
như việc mặc áo sám hối (1 V 21,27; Is 58,5),
rắc tro lền đầu và nằm trên tro (Is 58,5; Nhm 9,1)
và lời cầu xin sám hối , mà các tư tế đọc lên trước toàn dân
tụ họp (Hosê 14,34; Nhm 9; Dn 9,4-19; Br 1,15-3,8; Tv 13,14,79,102).
Những khi gặp sầu muộn và cùng cực, dân thấy Chúa sửa phạt và
thúc bách họ nhận biết lỗi mà sám hối, chẳng hạn như khi bị thua trận, khi bị
quân thù vây hãm, bị hạn hán, đói kém, ôn dịch hay bất cứ tai ương nào xảy đến.
Họ cảm thấy cần phải sám hối trong những hoàn cảnh bất thường, và cũng thấy
phải sám hối không ngừng. Mỗi năm họ cử hành ngày xá tội (Lv 23,28-32).
Lầm lỗi của mỗi người đòi buộc mỗi cá nhân riêng biệt sám hối để giao hòa lại
với Chúa. Hiệu quả của việc giao hòa là tâm hồn được đổi mới và được biến đổi
để thành người tốt (x. Tv 50).
(2) Tân Ước :
* Là người tiền hô, thánh Gioan Tẩy giả luôn kêu gọi mỗi người
phải lo hoán cải và trở về với Thiên Chúa để có thể vào được Nước Trời. (x. Mt 3,2).
Sự hoán cải phải toàn diện và chứng tỏ bằng "quả phúc" của một hạnh
kiểm mới, nhất thiết bằng tình yêu vô vị lợi và đi đôi với việc làm đối với tha
nhân (x. Lc 3,8.10-11; Mt 3,8). Điều đáng lưu
ý là việc sám hối được diễn tả bên ngoài, quy về Chúa và được Ngài chấp nhận.
Tất cả được thể hiện trong một nghi thức, đó là phép rửa hay thanh tẩy hối cải
để đáng được Thiên Chúa thứ tha (Lc 3,3).
* Đức Giêsu luôn kêu gọi mọi người phải hối cải, không phải vì
Chúa sắp xét xử cho bằng vì Nước Thiên Chúa đang đến gần và Nước đó đang hiện
hữu nơi chính Đức Kitô. Do đó, hối cải là bước đầu nhưng rất cần thiết để giúp
người ta tin vào Đức Kitô. Dấu có lòng sám hối chân thật là khi người đó nhất
quyết gắn bó với Phúc Am, với Chúa Kitô và với Ơn Cứu Độ. Không có lòng hối
cải, không tin vào Đức Kitô, chính là tự kết án tử cho mình : “Nếu các
ngươi không hối cải, thì các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như vậy” (Lc 13,3).
Hối cải và tin vào Tin Mừng của Đức Kitô là điều kiện cần thiết để vào Nước
Trời.
* Thánh Phao không ngừng khuyên bảo các kitô hữu sám hối bằng
cách biến đổi thành con người mới, bằng cách sống tích cực ơn của Bí Tích Rửa
Tội. Trong BTRT, con người xa tránh tội lỗi và quy hướng về Thiên Chúa. Việc
làm này cần phải được tiếp tục và làm đi làm lại. BTRT làm cho cuộc sống tín
hữu thành sự hoán cải không ngừng : “Quả thật, anh em đã chết và sự
sống của anh em đã được ẩn tàng nơi Thiên Chúa, làm một với Đức Kitô…Vậy anh em
hãy sát phạt chi thể mê theo thế tục : dâm bôn, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa
và tính tham lam hà tiện tức là một sự thờ quấy …”( Cl 3,3-5).
3/. Sự hiểu biết về Dung Mạo của Chúa Cha
giúp linh mục nên giống Chúa Cha hơn.
Người giáo dân luôn gọi các anh em linh mục chúng ta là Cha và
không chỉ gọi nhưng thực sự họ yêu quý chúng ta, kính trong chúng ta, những
người Cha thiêng liêng của họ một cách rất chân thành. Đôi khi họ còn bênh vực
chúng ta trước những người dám xúc phạm đến những người Cha thiêng liêng của
họ. Ước gì mỗi anh em linh mục chúng ta luôn thực sự và mỗi ngày cố gắng noi
gương Chúa Cha để trở thành những người Cha nhân từ, giàu lòng xót thương, chậm
bất bình và hết sức khoan dung.
Cần Thơ ngày 20/10/2015
Gm. Stêphanô Tri Bửu Thiên