 Ảnh: internet
|
Lúc này đây, trên toàn thế
giới, nhất là tại Việt Nam, mọi người đang phải oằn mình và mệt mỏi để chống chọi
với Đại Dịch Vũ Hán. Tình hình diễn biến Đại dịch ngày càng gia tăng con số nhiễm
bệnh và tử vong. Điều này làm cho con người không những thiếu thốn đủ mọi thứ:
ngoài việc phải ngưng nghỉ công việc, nhu yếu phẩm ít ỏi, bệnh viện hết chỗ cho
các bệnh nhân F0, lương thực thực phẩm sẽ thiếu hụt trong nay mai,…mà mỗi người
đang phải sống trong trạng huống hoang mang, lo sợ, chán nản và mất hết tinh thần.
Trong bối cảnh này, là người tín hữu, chúng ta chỉ biết chạy đến với lòng
thương xót của Thiên Chúa để xin Ngài thương đến nhân loại, nhất là những nơi
đang bị dịch bệnh hoành hành và nếu đẹp ý Ngài, xin Ngài mau chấm dứt cơn Đại dịch
gớm giếc này hầu mọi người trở lại cuộc sống bình an và hạnh phúc. Trong nhãn
quan đức tin, chúng ta tin rằng hơn bao giờ hết Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su
Ki-tô cũng đang nhìn thấy cảnh lầm than khốn khổ của con người và Ngài cũng
đang chạnh lòng thương tới hết thảy chúng sinh. Chúa nhật 16 thường niên B hôm
nay như lời trấn an cho mỗi chúng ta đang sống trong bối cảnh này. Chính Đức
Giê-su đã chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đông đúc như đàn chiên không có
người chăm sóc. Hôm nay, Ngài cũng đang chạnh lòng thương mỗi chúng ta khi chúng
ta đang đối diện với gian nan khốn khổ bởi Đại dịch Covid-19 này.
Quả thật, Thiên Chúa là tình
yêu. Là Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, Ngài luôn mong muốn cho con
người được sống và được hạnh phúc luôn mãi. Nên, Ngài đã có nhiều phương cách để
giúp con người đạt tới ơn cứu độ, qua việc dùng các trung gian đến an ủi, chăm
sóc, và nâng đỡ con người khi con người gặp tai ương hoạn nạn. Ngài là Mục tử
nhân lành luôn mong cho đàn chiên của mình luôn được ấm no và đông đủ. Nơi Bài
đọc I đã minh định điều đó: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ
khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng
sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo
chúng; họ sẽ chăn dắt chúng.” (Gr 23, 3-4). Chính Thiên Chúa ngang qua Đức
Giê-su đã thi thố tình yêu kỳ diệu của Ngài trên dân Ngài. Thiên Chúa vô hình
được hiện diện hữu hình nơi Ngôi Lời Nhập Thể để chạnh lòng thương trong mọi
hoàn cảnh và đối với tất cả mọi người. Ngài gặp người mù, người mù được sáng vì
Ngài yêu thương. Ngài gặp kẻ bại liệt, kẻ ấy liền đứng dậy vác chọng mà đi nhờ
quyền năng yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su. Ngài gặp người phong cùi,
vì yêu thương, Ngài không xa lánh nhưng gần gũi và đụng chạm lấy anh ta, cuối
cùng anh ấy được khỏi bệnh. Ngài yêu thương người cha của đứa con gái vừa mới
chết và xác nhận niềm tin chắc chắn của người cha để rồi đứa con được cứu sống.
Vì tin vào quyền năng của Đức Giê-su và tình yêu chữa lành của Thiên Chúa, người
đàn bà bị băng huyết 12 năm đã được khỏi bệnh.
Hơn nữa, chạnh lòng thương
nơi Đức Giê-su khi Ngài thực sự nhìn thấy đám đông như bầy chiên không người
chăm sóc. (Mc 6, 34). Sự lưu tâm và để ý đến thân phận con người, vì con người
là hình ảnh của Thiên Chúa. Không thể không chạnh lòng thương đối với con người
được, vì bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Mà vì yêu nên “Thiên Chúa yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Một khi đã được ban cho con người vì
tình yêu, Đức Giê-su không thể không thực thi tình yêu, không thể không chạnh
lòng thương đối với con người. Vì thế, nhìn thấy con người gặp đau khổ và gian
nan, là đương nhiên Đức Giê-su phải biểu lộ sự cảm thông và sự quan tâm ngay mà
không chần chừ và lưỡng lự.
Đặc biệt đối với những kẻ bé
mọn, những kẻ khiêm nhường, những kẻ nghèo đói, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ
bị loại ra khỏi lề xã hội, những người tội lỗi, Chúa Giêsu càng phải chạnh lòng
thương họ hơn bao giờ hết. Vì Ngài đã phán: “Ta đến không phải để kêu mời
người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn.”(Lc 5,32). Ngài chạnh lòng
thương khi thấy họ vất vả, mang gắng nặng nề. Ngài chạnh lòng thương họ khi mời
họ hãy mang lấy ách của Ngài và hãy học lấy sự hiền lành cũng như sự khiêm nhường
của Ngài. (x. Mt 11,28-30). Ngài chạnh lòng thương khi dân chúng sai đường lạc
lối và mong muốn họ hãy đi theo Ngài vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.
(x.Ga 14,6). Ngài chạnh lòng thương khi thấy các môn đệ buồn bã, thất vọng sau
khi mất Thầy, Ngài đến đồng hành, an ủi, trấn an, giải thích Lời Chúa và cùng bẻ
bánh với họ. (x.Lc 24,13-35). Ngài chạnh lòng thương các môn đệ khi các ông vất
vả cả đêm mà không bắt được con cá nào và Ngài đã cho thu được những mẻ cá lạ
lùng. (x.Lc 5,1-11). Ngài chạnh lòng thương khi các môn đệ phải đi ngược gió
khi lái thuyền và Ngài đã làm cho gió yên biển lặng. (x.Mt 8,23-27). Ngài chạnh
lòng thương khi các môn đệ bỏ thầy mà đi khi thầy bị bắt. Ngài chạnh lòng
thương đối với Phêrô, khi chối thầy ba lần và ánh mắt nhân từ cũng như tha thứ
của Ngài đã làm cho Phêrô khóc lóc ăn năn. (x.Lc 23,61-62).
Ngoài ra, Đức Giê-su còn chạnh
lòng thương đối với những thành đã được nghe lời giảng cũng như chứng kiến các
phép lạ mà không chịu ăn năn hối cải.(x.Mt 11,20-24). Ngài chạnh lòng thương đối
với dân làng, quê hương khi không đón nhận Ngài.(x.Lc 4,24-30). Ngài chạnh lòng
thương đối với những người cứng đầu cứng cổ không chịu tin vào Ngài. Ngài chạnh
lòng thương và sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài. (x.Lc 23,34) Ngài
chạnh lòng thương khi trao ban Đức Mẹ cho thánh Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ.(x.Ga
19,25-27). Ngài chạnh lòng thương đối với nhân loại khi sẵn sàng chịu chết trên
cây Thập giá. (x.Mt 26,36-46). Ngài chạnh lòng thương khi trao ban Chúa Thánh
Thần, Đấng Bảo Trợ cho nhân loại. (x.Ga 14,15-21). Ngài chạnh lòng thương khi
trao Mình Máu của Ngài cho con người để con người được sống đời đời. (x.Ga
6,41-51). Ngài chạnh lòng thương nên không muốn cho nhân loại mồ côi. Ngài chạnh
lòng thương nên Ngài sẵn sàng dạy dỗ họ trong mọi nơi mọi lúc. Ngài chạnh lòng
thương nên Ngài không nghĩ cho riêng mình nhưng trao ban tất cả cho muôn người.
Thật vậy, thay vì tìm nơi để
Thầy trò nghỉ ngơi nhưng không, vì thương đám đông như đoàn chiên không người
chăn dắt nên Thầy trò lại tiếp tục giảng dạy Lời Chúa cho họ. (x.Mc 6,34). Họ
tìm đến với Chúa Giê-su vì họ đang khát Lời Chúa và sự bình an. Tình yêu nơi Thầy
Giê-su không ngưng nghỉ nhưng là luôn luôn sẵn sàng trao ban ở mọi nơi mọi lúc
miễn sao cho con người được sống và sống dồi dào.(x.Ga 10,10). Ngài chạnh lòng
thương khi biết nối kết sự hiệp nhất như Thánh Phaolô đã khẳng định trong Bài đọc
2: “Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi
bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ
bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và
giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một
người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi
bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất ; trên thập giá,
Người đã tiêu diệt sự thù ghét.” (Ep 2,14-16).
Quả thật, cho dù Đức Giê-su
là hình ảnh chạnh lòng thương của Thiên Chúa ở với nhân loại, nhưng Ngài vẫn chờ
đợi sự đáp trả của con người. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của
con người. Ngài luôn chạnh lòng thương nhưng con người có đón nhận được hay
không là tuỳ thuộc vào sự cộng tác của con người. Như dân chúng trong Tin mừng
hôm nay đã tìm gặp Đức Giê-su bằng mọi cách mà không ngại khó ngại khổ, kết quả
là họ đã được Đức Giê-su tiếp nhận và được lắng nghe những lời giảng dạy đầy
bình an của Ngài. Như vậy, ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua
Đức Giê-su chỉ đến được với con người khi con người khiêm tốn nhận ra sự thiếu
thốn của mình và nỗ lực tìm kiếm. Tôi có thực sự được Chúa chạnh lòng thương
không? Tôi đang ở trong tình trạng nào để đón nhận tình yêu của Thiên Chúa:
khiêm tốn tìm gặp Chúa hay kiêu căng loại trừ Chúa ra khỏi cuộc đời?
Linh mục Phaolô Phạm Trọng
Phương