
|
Lịch sử Hoa Kỳ có ghi lại một câu chuyện rất đặc biệt liên
quan đến nữ tỉ phú có tên là Hetty Robinson. Bà có khả năng kiếm tiền dễ đến
nỗi người ta gọi bà là “phù thủy phố Wall”. Nhờ vào tài kiếm tiền thiên phú, bà
đã trở thành một trong những nữ tỉ phú giàu có nhất nước Mỹ hồi đầu thế kỷ 20,
khi tuổi đời còn rất trẻ. Tuy nhiên, bà cũng là một người keo kiệt nhất được
biết đến thời bấy giờ. Bà đếm từng xu một và dường như không bao giờ cho ai hay
giúp đỡ ai một đồng nào. Bà cũng không muốn tiêu tiền. Bà không mua nhà riêng mà
chỉ ở nhà cho thuê bình dân, vì không muốn trả tiền thuế nhà đất. Bà hầu như không
mua sắm quần áo, nên lúc nào cũng chỉ mặc mỗi cái váy đầm dài màu đen. Bà tự
tay giặt lấy, nhưng để tiết kiệm xà bông, bà chỉ giặt phần gấu váy, tức phần
tiếp xúc với nền đất. Các doanh nhân khác thì có văn phòng riêng, còn bà thì
không. Bà thường sử dụng cái bàn ở nhà bank, nơi bà gởi tiền, để làm việc và ăn
uống tại đó luôn. Thức ăn thường là bánh mì săng-đúyt, đỡ mất công nấu nướng
tốn kém.
Khi con trai bà bị thương ở đầu gối, bà không muốn trả
tiền cho bác sĩ, nên bà đã đưa đến một bệnh viện từ thiện dành cho người nghèo.
Không may bác sĩ biết bà là một người giàu và đòi lấy tiền. Bà từ chối trả tiền
và đưa con bà về. Sau đó vết thương nơi đầu gối con trai bà bị nhiễm trùng và
rồi các bác sĩ phải cưa chân. Chưa hết, một lần kia, khi đến cửa hàng mua một
chai sữa, bà đã cãi nhau với nhân viên về giá cả. Và bà tức giận đến nỗi lên cơn
và đột quỵ. Bà chết lãng xẹt: chết vì một chai sữa, hay nói đúng hơn là chính
tính keo kiệt đã giết chết bà.
Khi được thừa kế gia tài bà ta để lại, cậu con trai đã trả
thù đời bằng cách phung phí hết vào việc ăn chơi tiệc tùng và mua sắm xa hoa,
thậm chí cái bô tiểu cũng được cậu ta nạm kim cương. Đó cũng là một hình thức
trả thù cho sự tật nguyền mà mình phải chịu vì sự keo kiệt của bà mẹ. (x.
"Life Lines", Tom Hutchinson, trang 26).
Nếu trên cõi đời này, có những con người keo kiệt và bần
tiện như bà tỉ phú Hetty Robinson, thì cũng có những con người có tấm lòng hào
hiệp và quảng đại như tấm lòng hai bà góa được nhắc đến trong Phụng vụ Lời Chúa,
Chúa Nhật 32 Thường Niên hôm nay.
Bà goá
thứ nhất quê ở Sarepta, sống vào thời ngôn sứ Êlia. Bà goá thứ hai mà Tin Mừng nói đến quê ở Palestina, sống
vào thời Chúa Giêsu. Cả hai có điểm nào giống nhau? Cả hai đều là bà góa nghèo,
nghèo của cải vật chất, nhưng lại giàu tấm lòng.
Bà goá quê ở Sarepta thì quảng đại cho đi cái bánh cuối
cùng, giúp ngôn sứ Êlia thoát khỏi cơn đói, dù mẹ con bà đang đối mặt với nạn
đói lớn trong vùng và cái chết đang kề cận. Còn bà goá trong Tin Mừng thì có
lòng quảng đại dâng hiến tất cả những gì bà có với niềm tín thác tuyệt đối. Dù
số tiền của bà bỏ vào thùng tiền Đền Thờ chỉ là 2 đồng tiền kẽm, trị giá bằng ¼
xu
của người Rôma thời bấy giờ, tương đương với ¼ giá trị một ngày công. Nếu tính một
ngày công bây giờ là 200 ngàn đồng, thì ¼ ngày công là 50 ngàn đồng. Năm mươi
ngàn chẳng là bao, nhưng đó là tất cả
những gì bà có để nuôi sống mình. Chúa Giêsu đã khen ngợi bà và đưa bà ra làm
gương cho các môn đệ của Ngài.
- Thứ nhất là gương về lòng quảng đại
hiến dâng. Bà bỏ tiền dâng hiến vào
Đền thờ không phải để khoe khoang hay phô trương như nhiều người do thái giàu
có khác. Thực sự bà nghèo, nên không buộc phải dâng tiền bạc vào Đền Thờ. Nhưng
vì bà có một lòng quảng đại lớn lao. Bà vẫn thích sống cho đi. Bà
không đợi đến lúc có dư ra năm, bảy đồng mới dâng cúng một đồng. Bà dâng ngay
tất cả những gì mình có trong lúc cùng cực nhất, bế tắc nhất. Vì bà ý thức cuộc sống là nhận lãnh thì
cũng phải biết cho đi, nên bà sẵn sàng cho đi cả sự sống của mình.
- Thứ hai
là gương về lòng tín thác vào Thiên Chúa. Không biết bà có con cháu hay không. Thánh sử Maccô chỉ
nói rằng bà là một góa phụ nghèo. Tức là bà đã mất chồng và nghèo túng. Góa mà
nghèo nữa, nên nếu có con cháu thì có lẽ bà cũng không được nhờ cậy gì. Tuy
nhiên, bà là người rất giàu về niềm tín thác. Bà tín thác hoàn toàn vào Thiên
Chúa là người cha tốt lành của bà. Thiên Chúa là điểm tựa của bà, và bà tin
tưởng rằng Ngài sẽ không bỏ mặc bà. Vì thế bà sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa
một cách quảng đại.
Phần
chúng ta, những người xưng mình là Kitô hữu thì sao? Thực tế ta thấy có những người
giáo dân không bao giờ dâng cúng cho công việc chung một đồng nào. Lấy lý do:
người ta dâng tiền triệu này triệu kia, còn tôi dâng tiền trăm, tiền chục, khó
coi quá! Thiên Chúa không đo không lường số lượng của dâng, ít hay nhiều, mà
Ngài nhìn chỉ nhìn vào tấm lòng của người dâng: quảng đại hay keo kiệt.
Rồi
cũng có những người không hề mở hầu bao để giúp đỡ cho những kẻ hoạn nạn một
cắc nào, viện cớ: tôi còn chưa lo được cho tôi, gia đình tôi, nói gì đến chuyện
lo cho người khác. Và rồi
cũng có những người né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng câu nói: “Hãy chờ khi
nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ cho ông cho bà, cho anh cho chị…”. Và sự chờ
đợi ấy sẽ kéo dài mỏi mòn không biết đến bao giờ làm ăn khá hơn để giúp đỡ, để
sẻ chia. Nói chung, người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho thái
độ dửng dưng, vô cảm, vô tâm, không muốn giúp đỡ anh chị em đồng loại.
Thực
tế, không ai nghèo đến độ không có gì để dâng hay để cho. Và những ai tự ti là
mình không có gì để dâng hiến, hay để cho đi là những người có tội với mình và
có tội với Chúa. Nếu không có của cải tiền bạc để cho thì cho đi tấm lòng. Cho
đi tấm lòng được thể hiện qua một ánh mắt cảm thông, một nụ cười khích lệ, hay một
lời nói ủi an. Cho đi tấm lòng còn được thể hiện qua sự hy sinh một phần thời
giờ, sức khoẻ và khả năng để hiện diện, để phục vụ tha nhân, v.v…
Cái
cho lớn hơn cả vẫn là cho đi tấm lòng, cho đi chính mình. Chỉ với hai đồng tiền
kẽm vốn chẳng có giá trị gì đối với những người giàu, nhưng lại là lớn lao
trước mặt Thiên Chúa vì đồng tiền đó được gói trong một “tấm lòng vàng”. Bởi đó
người ta thường nói rằng cho tiền cho bạc là cho ít, cho đi tấm lòng mới là cho
nhiều; hay “của ít mà lòng nhiều” vẫn có giá trị hơn là “của nhiều mà lòng ít,
hoặc là không có tí lòng nào”.
Nếu
chúng ta biết quảng đại dâng hiến, quảng đại cho đi thì sẽ được Thiên Chúa cho
lại. Thiên Chúa cho lại có khi gấp trăm gấp ngàn lần. Chính Chúa Giêsu đã khẳng
định điều này: “Anh em hãy cho thì sẽ
được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ dùng đấu hảo hạng đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà
đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho
anh em bằng đấu ấy. (Lc 6,38). Ta đang đong cho Chúa và cho anh em bằng đấu
nào: đấu hẹp hòi keo kiệt hay đấu rộng lượng bao la?
Thực
tế cũng cho ta thấy có những người chỉ biết nhận mà không bao giờ biết cho.
Hoặc giả như có cho đi nữa thì cho kiểu bố thí, hoặc cho kiểu bất đắc dĩ. Chúa
ban cho ta 10 đồng, ta dâng lại cho Chúa 1 đồng, hay cho anh chị em vài đồng mà
thấy xót xa vô cùng. Thế đấy! Chúa đã quảng đại với ta, vậy mà ta không biết
quảng đại lại với Chúa sao?
Ta “quảng
đại với Chúa” bằng cách nào? Bằng cách sẵn sàng đóng góp một cách hào phóng cho
những công việc chung của Giáo hội, của giáo phận, hay của giáo xứ. Nhất là
luôn sẵn lòng giúp đỡ cho anh chị em của mình, đặc biệt là những người nghèo
khổ túng thiếu, hay những người đang gặp hoạn nạn tai ương.
Ước gì
trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta luôn có thái độ sống quảng đại để hiến
dâng, biết cho đi với tất cả lòng yêu mến và tín thác trọn vẹn như bà goá nghèo
trong Tin Mừng hôm nay. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long