HIỆP SỐNG TIN MỪNG LỄ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ (29/06) (Cv 12,1-11 ; 2 Tm 4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19)
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG:
(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê,
Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói con Người là ai ?” (14) Các
ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông
Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn
sứ”. (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
(16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, Anh
thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều
đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy
bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Và quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất,
anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất,
anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
2. Ý CHÍNH:
Sau khi Si-mon đại diện cho Nhóm
Mười Hai khẳng định Người là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống
(15-16), ông đã được khen là có phúc (17), được đổi tên thành Phê-rô và
được hứa xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin mà ông vừa tuyên xưng,
tiên báo Hội Thánh ấy sẽ trường tồn, bất chấp ma quỷ chống phá
(18). Sau cùng Người cũng trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền
cầm buộc và tháo cởi (19).
3. HỎI ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:
HỎI 1: Khi thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa
hằng sống”, phải chăng Tông đồ Si-mon có ý nói về bản tính Thiên
Chúa của Người ?
ĐÁP:
Có lẽ khi tuyên xưng Đức Giê-su là
“Con Thiên Chúa hằng sống”, Phê-rô vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của tước
hiệu ông nói. Ông chỉ muốn giải thích ý nghĩa của tước hiệu Đấng
Ki-tô, theo lời ngôn sứ Na-than tuyên sấm về người con sẽ nối nghiệp
vua Đa-vít như sau: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm
xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một
người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được
vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ làm
cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là Cha.
Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm 7,12-14). Lời ấy đã không ứng nghiệm
nơi Sa-lô-mon, con vua Đa-vít. Từ đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng
Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đa-vít sẽ đến. Về sau, trong cuộc khải
hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cũng được dân chúng ca tụng
bằng tước hiệu "Con Vua Đa-vít" này (x. Mt 21,9). Khi tuyên xưng
tước hiệu "Con Thiên Chúa hằng sống", Phê-rô chưa hiểu ý
nghĩa lời ông nói. Sau đó, Đức Giê-su đã cho biết ý nghĩa tước hiệu
này là nói về bản tính Thiên Chúa, qua lời khen ông có phúc vì đã
được Chúa Cha thương mặc khải cho biết sự thật ấy (x Mt 16,17).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su đổi tên Si-mon thành Phê-rô ? Việc đổi tên
chính xác xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp mặt (x Ga 1,42), khi thành
lập Nhóm Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay sau khi Phê-rô tuyên xưng đức
tin (x Mt 16,18) ?
ĐÁP:
Cũng có thể Đức Giê-su đã đặt tên
Phê-rô cho Si-mon khi vừa gặp mặt (x. Ga 1,42), hay khi thành lập Nhóm
Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc 6,14). Tuy nhiên có lẽ việc đổi tên xảy ra sau
lời tuyên xưng đức tin của Si-mon là hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì sau
khi đổi tên, Đức Giê-su đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của ông trong
Hội Thánh: Đức tin của Phê-rô vào Đức Giê-su chính là tảng đá vững
chắc mà trên đó, Người xây dựng Hội Thánh của Người. Ngoài ra Đức
Giê-su còn trao tối thượng quyền cho ông để ông cầm buộc và tháo cởi
(x. Mt 16,18-19). Người cũng cho Phê-rô đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt
10,2), và hứa sẽ cầu nguyện để ông kiên vững đức tin, hầu chu tòan sứ
mệnh củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng, Người còn
trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông nữa (x.Ga 21,15-17).
HỎI 3: Một số người cho rằng: Si-mon Phê-rô là một người đầy
khuyết điểm và đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, thì làm sao xứng
đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi hành quyền cầm buộc và tháo cởi
được ?
ĐÁP:
Từ ngày được Đức Giê-su gọi theo
làm môn đệ, Si-mon đã phạm nhiều sai lầm. Chẳng hạn: Ông bị Thầy quở
trách vì đã suy nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài người (x. Mt 16,23);
Bị trách là kẻ hèn tin khi đang đi trên mặt nước (x. Mt 14,31); Bị
Thầy cảnh báo không được dự phần với Thầy, vì đã từ chối không cho
Thầy rửa chân (x. Ga 13,8-10); Nhất là vì quá tự tin vào sức mình nên ông
đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x.
Mc 14,30.66-72).
Nhưng Si-mon Phê-rô cũng có những ưu
điểm xứng đáng được Đức Giê-su tín nhiệm trao quyền lãnh đạo Hội
Thánh. Chẳng hạn: tại thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ông đã tuyên xưng đức
tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã được Chúa
đổi tên thành Phê-rô, và được trao quyền tối thượng cầm buộc và tháo
cởi (x. Mt 16,18-19). Có lần ông được Đức Giê-su hứa sẽ cầu nguyện cho
để luôn kiên vững đức tin, và trao thêm sứ mệnh củng cố đức tin cho
các anh em (x. Lc 22,32). Phê-rô cũng rất nhiệt tình, thường đại diện
anh em trả lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc 5,3-10), đại diện Nhóm
Mười Hai tuyên xưng đức tin vào lời dạy về Bánh Thánh Thể, đang khi
nhiều môn đệ khác chán nản rút lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên vững đức
tin, nên ông đã được Đức Giê-su đặt đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt
10,2), được đi trên mặt nước (x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba môn
đệ thân tín nhất chứng kiến cuộc hiển dung của Người (x. Mt 17,1),
chứng kiến phép lạ bé gái mới chết được Người cho sống lại (x. Mt
5,37), và nhất là chứng kiến lúc Thầy hấp hối trong vườn Cây Dầu (x.
Mt 26,37).
Tuy có lần sa ngã phạm tội, nhưng
Phê-rô đã lập tức sám hối (x. Mt 26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều hơn anh
em, nên ông đã được Người tha thứ và trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên
(x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến Đức Giê-su đã thúc bách Phê-rô
chạy thi với Gio-an ra mồ và đã sớm đạt được đức tin vào mầu nhiệm phục
sinh của Thầy (x. Ga 20,1-9). Phê-rô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra (x.
Lc 24,34), được cùng anh em lãnh nhận ơn Thánh Thần và đi rao giảng Tin
Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36), có khả năng chữa lành nhiều bệnh nhân (x.
Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa công nghị Giê-ru-sa-lem năm 49 (x. Cv 15,5-29).
Cuối cùng ông đã can đảm quay vào thành Rô-ma để bị bắt và chịu khổ
hình thập giá, dưới thời hoàng đế Nê-rô (năm 64-67). Cái chết của
Phê-rô chứng tỏ lòng mến Chúa cao độ, và nêu gương đức tin vững như đá
tảng, để các tín hữu chúng ta học tập noi theo.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô,
nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của
Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh
chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng
sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng
sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU TRONG VIỆC BIẾN ĐỔI LÒNG NGƯỜI :
Nữ tu Antoinette được bề trên sai đến
phục vụ tại một bệnh viện lớn. Tại đây có một ông già cực kỳ khó tính. Tiếp xúc
với ai ông cũng nạt nộ la mắng. nhất là khi gặp chuyện trái ý, ông lại to tiếng
ầm ĩ khiến mọi người chung quanh đều khó chịu xa lánh.
Ngày nọ, khi đang mải mê làm việc giúp
các bệnh nhân khác, nữ tu Antoinette nghe thấy tiếng hét lớn của ông già khó
tính: “Mau mau mang ra đây cho tôi một quả trứng luộc". Các y tá khác đều
lảng tránh sang phòng bên, riêng nữ tu Antoinette đã mau mắn đến nhà bếp đem
quả trứng đến cho ông già này.
- Sao trứng chưa chín mà đã đem cho tôi
hả? Bộ muốn tôi đau bụng chết sao? Ông lão khó tính cau có trách mắng. Nữ tu
Antoinette không đáp lại mà đem trứng xuống bếp luộc lại.
- Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Sao
lại làm ăn vô ý vô tứ như vậy hả ?
Antoinette chẳng biết phải làm gì để
chiều ý ông lão. Chị liền đi lấy một cái bếp lò đến kê bên giường và trao cho
ông già khó tính một trái trứng để luộc cho vừa ý. Thấy thế ông ta liền nổi
nóng đạp đổ bếp lò, quăng quả trứng kia xuống nền gạch và lớn tiếng: "Cô
không biết tôi là bệnh nhân sao? Bệnh nhân mà lại phải tự luộc trứng hả?"
Nữ tu Antoinette không nói nửa lời. Chị
im lặng đi lấy chổi và cây lau nhà đến quét dọn và lau sạch sàn nhà… Lát sau,
chị đem đến cho lão già khó tính một trái trứng khác và nói: "Ông cố gắng
dùng thử trứng này, tôi đã luộc vừa chín tới thôi?" Bất giác, ông lính già
rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: "Tôi thật có lỗi vì đã vô lý
quát mắng cô. Giờ đây tôi sẽ ăn quả trứng này cũng để cám ơn lòng tốt của cô
!"
Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng hơn
bất cứ một sự biến đổi lạ kỳ nào, nhất là nó có khả năng biến đổi cả lòng những
con người độc ác nữa. Ước gì chúng ta biết noi gương theo Thầy Chí Thánh Giê-su
luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp nơi con người và luôn hy vọng vào những người
đang lầm lạc trong cuộc đời này để dùng tình yêu biến đổi cảm hoá họ.
2) PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU
?
Ngày xưa, một ông vua nước Hy Lạp
tổ chức một cuộc thi làm tượng ảnh nghệ thuật: các nghệ nhân sẽ
tạc tượng hoặc làm tranh tượng về chân dung của nhà vua. Vua hứa sẽ
ban phần thưởng lớn cho những tác phẩm giống ngài nhất. Nghe thông
báo, các nghệ nhân từ khắp các nước chung quanh đã ùn ùn kép đến Hy
Lạp xin vào hoàng cung ứng thí. Nghệ nhân Ấn-độ thì mang theo dụng cụ
để chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và các loại ngọc trai quý giá.
Nghệ nhân Ai Cập thì mang theo đồ nghề đục đẽo đá quý và một khối
đá cẩm thạch rất đẹp. Ai cũng quyết tâm dành được giải thưởng của nhà
vua. Riêng nghệ nhân nước chủ nhà Hy Lạp chỉ đến ứng thí với bộ đồ
gọt dũa đánh bóng đơn giản.
Mỗi đoàn dự thi được ban tổ chức
bố trí chỗ ở và làm việc tại một phòng trong khu hoàng cung. Tới
ngày thi, nhà vua ra lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành tác phẩm trong
thời gian một tuần lễ. Thế là các nghệ nhân vội vàng bắt tay vào
việc. Họ đục đẽo, chà sát, đánh bóng để khắc họa chân dung nhà vua
Hy Lạp cho giống như người thật. Khi một tuần trôi qua, nhà vua truyền
đem các tác phẩm đến trưng bày tại đại sảnh lớn trong hoàng cung để
nhà vua và bá quan trong triều đến chấm điểm. Nhà vua hết sức hài
lòng, khi chiêm ngưỡng các tác phẩm dự thi họa lại chân dung của mình,
do các nghệ nhân Ấn Độ, Ai Cập và nhiều nước khác sáng tác. Mỗi
bức tượng, tranh tượng hay phù điêu đều có những đường nét tinh vi
sắc sảo, nhìn giống hệt khuôn mặt của ngài. Các tác phẩm ấy được
tạc vẽ từ đất nung, từ đá cẩm thạch, hay các loại vàng bạc quý kim
khác. Cuối cùng khi đến chỗ trưng bày của các nghệ nhân Hy Lạp thì
nhà vua và bá quan rất ngạc nhiên vì không thấy bất cứ bức tượng hay
tranh tượng nào được trưng bày, mà chỉ thấy một phiến đá cẩm thạch
trắng, được các nghệ nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi tác phẩm đâu,
thì một người đã đưa ngài đến đứng trước phiến đá và chỉ vào chân
dung của ngài hiện ra trong đó. Nhìn thấy hình ảnh trung thực của
mình, nhà vua đã hiểu ra và hết sức cảm động. Ngài nhận xét các
bức tranh hay tượng khác, dù có giống ngài nhưng chúng không sống
động và trung thực bằng hình ảnh được phản chiếu từ chính con người
thật của ngài. Nhà vua đã chấm cho tác phẩm của đoàn nghệ nhân Hy
Lạp hạng nhất. Còn các tác phẩm khác cũng được xếp hạng và đều
có phần thưởng tương xứng với giá trị của chúng. Sau đó, tất cả
các tác phẩm đều được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho dân
chúng tự do đến chiêm ngưỡng.
3) THAY ĐỔI LỐI SỐNG LÀ PHƯƠNG CÁCH SÁM HỐI
HỮU HIỆU NHẤT:
Tại
một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì cùng quẫn đã trở thành
kẻ đạo tặc là cùng nhau đi ăn cắp cừu của một trang trại trong vùng. Chẳng
may cả hai anh em đều bị bắt. Hội đồng xét xử ra án phạt xăm lên trán họ hai
chữ “ST”, có nghĩa là tên trộm cừu (viết tắt của chữ Sheep Thief). Không
chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống để
mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh luôn phải bối rối và ấp úng khi nhiều
người cứ thắc mắc hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ ST xâm tên trán anh.
Còn
người em đã tự nhủ: “Ta cần chi phải trốn đi nơi khác. Điều cần làm là ta phải
thay đổi lối sống thành một người lương thiện thì chắc chắn ta sẽ sớm lấy lại
lòng tin yêu của dân làng. Thế là anh quyết định ở lại quê hương. Anh đã lao
động vất vả bằng đôi tay của mình và dành một phần hoa lợi giúp đỡ cho người
nghèo. Anh sống chan hoà yêu thương với mọi người dân làng. Sau một thời gian
tuy hai chữ “ST” vẫn còn in dấu trên vầng trán của anh, nhưng chẳng mấy ai để ý
đến ý nghĩa hai chữ ST đó.
Ngày
nọ, một doanh nhân từ xa nghe tiếng tốt về anh đã đến tận nơi tìm hiểu để sẽ
hợp tác làm ăn với anh. Sau khi ra về ông ta gặp một cụ già trong làng và hỏi
về ý nghĩa hai chữ ST trên trán của anh. Cụ già suy nghĩ một chút rồi trả lời:
“Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ ấy. Nhưng cứ nhìn vào đời sống tốt lành
của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là một người “thánh thiện” (Saint)”.
Cuộc đời của hai vị thánh Phê-rô và
Phao-lô cũng nhiều tội lỗi: Phê-rô có lần bị Chúa quở là “Satan” vì dám cản
Thầy làm theo ý Chúa Cha, rồi ông cũng đã ba lần chối không biết Thầy trước mặt
người khá. Còn Phao-lô đã từng chống lại Chúa Giê-su khi mang quân đi lùng bắt
các tín hữu ở thành Đa-mát. Cũng chính Phao-lô đã can dự vào việc ném đá ông
Stê-pha-nô, vị tử đạo tiên khởi của Hội Thánh. Nhưng điều chúng ta cần học tập
các ngài là sự sám hối: Các ngài đã mau mắn trỗi dậy sau khi vấp ngã và chuộc lỗi
lầm bằng việc can đảm làm chứng cho Chúa.
3. SUY NIỆM:
Hôm
nay, Hội Thánh mừng kính 2 vị Tông đồ là Phêrô và Phaolô chung trong một ngày
lễ. Chúng ta cùng suy nghĩ về cuộc đời của hai Tông đồ trụ cột này của Hội
Thánh để thấy được sức mạnh tình thương của Thiên Chúa trong việc biến đổi lòng
người.
1) Về ơn kêu gọi của hai Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Phê-rô làm nghề đánh cá tại làng Bet-sai-đa, gần hồ
Ga-li-lê. Phê-rô tên thật là Si-mon, có em là An-rê. Khi An-rê được thầy mình
là Gio-an Bao-ti-xi-ta giới thiệu về Đức Giê-su thì"Trước hết ông gặp anh
mình là Si-mon và nói : Chúng tôi đã gặp được Đấng Mê-si-a. Rồi ông dẫn anh
mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn Phê-rô và nói: "Anh là Si-mon,
con ông Gio-na, anh sẽ được gọi là Kê-pha nghĩa là Đá" (Ga 1,41-42). Sau đó ít ngày, đang lúc Đức
Giê-su đi trên bờ hồ Gê-nê-sa-rét, có đám đông dân chúng đi theo. Người thấy
ông Si-mon đang giặt lưới dưới thuyền, nên Người đã xuống thuyền ấy mà giảng
dạy dân chúng ngồi trên bờ hồ. Giảng xong, Người bảo Si-mon chèo thuyền ra giữa
hồ đánh cá. Mặc dù suốt đêm vất vả mà không bắt được con nào, nhưng Si-mon vẫn
vâng lời Thầy: Ông chèo thuyền ra khơi thả lưới và đã bắt được mẻ cá lạ lùng.
Trước sự lạ ấy, Si-mon tỏ vẻ kính sợ, nhưng Người bảo ông: "Đừng sợ, từ
nay anh sẽ là kẻ chài lưới người ta. Thế là ông đưa thuyền vào bờ rồi đi theo
làm môn đệ Người” (Lc.5,10-11).
- Phao-lô tên thật là Sao-lê quê thành Tác-sô,
miền Ki-li-ki-a. Theo học với ông thầy nổi tiếng là Ga-ma-li-en. Sao-lê giữ
luật Mô-sê nghiêm chỉnh. Tuy là người Do Thái nhưng ông cũng có quốc tịch
Ro-ma. Sao-lê rất sùng đạo Do thái nên rất ghét đạo mới của Đức Giê-su. Nghe
tin ở Đa-mát có nhiều tín hữu Ki-tô, Sao-lê đã xin lệnh của thượng tế, đem quân
đến thành Đa-mát bắt các tín hữu mang về Giê-ru-sa-lem trị tội. Nhưng khi đến
cửa thành, Sao-lê đã bị một làn chớp sáng đánh trúng bị té xuống ngựa, mắt ông
bị loà không nhìn thấy gì. Ông nghe thấy tiếng Chúa Giê-su hiện ra hạch hỏi và
ông đã khuất phuc Người. Rồi ông được một người trong thành là A-na-ni-a đón
vào thành và dạy đạo. Sau khi được chịu phép rửa tội, Sao-lê lại được sáng mắt
và được đổi tên thành Phao-lô. Ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra dạy dỗ cách
riêng và trao cho sứ mệnh làm tông đồ rao giảng Tin Mừng (x. TĐCV 22,3-21). Thế
là từ một người cuồng tín đi bắt đạo, Phao-lô đã được ơn Chúa biến đổi thành
một Tông đồ dân ngoại.
2) Tính cách của hai vị
Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Tông đồ Phê-rô khi đi theo Đức Giê-su gần ba năm,
thường đại diện Nhóm 12 trả lời Thầy. Khi Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”
Phê-rô đã đại diện anh em thưa rằng: "Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa
hằng sống". Có lần Phê-rô ngăn cản Thầy đừng đi Giê-ru-sa-lem chịu khổ
nạn, và ông đã bị Thầy nặng lời quở trách. Phê-rô đã được các tác giả Tân Ước
đề cập tới 195 lần. Ông có tính tình nóng nảy và yêu mến Thầy. Khi nghe Đức
Giê-su cho biết các môn đệ sắp hèn nhát bỏ Thầy chạy trốn, Ông đã hứa với Thầy:
“Dù moi người bỏ thầy, còn Phê-rô sẽ không bao giờ". Tuy
nhiên, ông cũng là một người yếu đuối, nên ông đã phạm tội chối Thầy 3
lần: "Tôi không biết ông Giê-su là ai". Đến khi nghe tiếng gà
gáy và Đức Giê-su bị trói đi ngang qua chỗ ông và Người nhìn ông, thì ông đã
xúc động ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Đức Giê-su sau khi sống lại, đã hiện ra
hỏi Phê-rô ba lần có mến Thầy hơn những người này không, thì cả ba lầm ông đều
tuyên xưng lòng mến: "Thưa Thầy, có. Thầy biết con mến Thầy”. Mỗi lần như
thế, Chúa đều trao cho ông trách nhiệm chăn dắt đàn chiên của Người (x. Ga
21,15-19)
b) Tông đồ Phao-lô sau khi trở lại với Chúa, đã hết lòng
loan báo Tin Mừng. Ông đã đi khắp vùng Đế Quốc Rô-ma rao giảng cho dân ngoại
tin theo Chúa, chấp nhận mọi gian nan chống đối gặp phải: bị bắt bớ xét xử, bị
đánh đòn, đắm tầu, đói rét, ở trần… vì Danh Chúa. Nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh
Thần, Phao-lô đã viết nhiều bức thư để tiếp tục giáo huấn về cách ăn nết ở cho
các tín hữu trong các giáo đoàn đã nghe ngài giảng mà tin theo Chúa Giê-su,
nhằn răn dạy họ bỏ các tội lỗi mà sống tốt lành theo Chúa Giê-su. Ông cũng dạy
họ đào sâu về nhiều mặt như: Kinh Thánh, tín lý, luân lý, phụng vụ… Phao-lô còn
nêu gương sẵn sàng chịu mọi đau khổ hơn mọi người vì danh Chúa Giê-su như ông
đã viết: “Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như người điên: Tôi còn hơn
họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao
lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một. Ba lần
bị đánh đòn, một lần bị ném đã, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh
giữa biển khơi… (2 Cr 11,23-25…)
3) Về lòng mến Chúa của hai
vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Tông đồ Phê-rô: Theo sách Công vụ Tông đồ, vào lễ Ngũ
Tuần, sau khi đón nhận đầy ơn Thánh Thần, Phê-rô đã cùng các Tông đồ bắt đầu
thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ông đã giảng một bài đầu tiên tại
Giê-ru-sa-lem. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, đã có 3 ngàn người xin tòng
giáo. Sau đó Phê-rô cùng Nhóm 11 chọn ông Mat-thi-a thế chỗ cho Giu-đa phản bội.
Ông cũng được Thánh Thần ban ơn làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế kèm theo lời
giảng. Ông đã chữa cho một người què tại cửa Đền thờ, và đón nhận dân ngoại vào
Hội Thánh. Người ta tin rằng chỉ cần cái bóng của ông lướt qua bệnh nhân cũng
đủ chữa lành cho họ. Phê-rô và các Tông đồ trong Nhóm 12 ưu tiên loan báo Tin
Mừng cho dân Do thái. Ông đã bị các đầu mục dân Do thái bắt bớ xét hỏi nhiều
lần và cấm rao giảng Danh Đức Giê-su. Nhưng ông đã tuyên bố trước Thượng Hội
Đồng rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm… Về những sự
kiện đó, chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần” (Cv 5,29-32). Vào lúc
cuối đời, khi đang ở Rô-ma và có nguy cơ bị bắt, Phê-rô đã nghe lời các tín hữu
để cải trang và đã trốn thoát ra ngoài thành Rô-ma để tiếp tục lãnh đạo Hội
Thánh. Nhưng sau đó ông đã gặp Đức Giê-su đang vác thánh giá đi về thành. Ông
hỏi Người: “Quo vadis ?” (Thầy đi đâu?). Chúa trả lời: “Ta vào thành Rô-ma để
chịu đóng đanh một lần nữa” rồi Chúa biến mất. Phê-rô hiểu ý Chúa muốn ông ở
lại Rô-ma để làm chứng cho Chúa giữa các tín hữu, nên ông lại đi vào thành. Sau
đó Phê-rô bị bắt và bị kết án tử hình thập giá vào năm 65 dưới thời hoàng đế
Nê-rông. Khi chịu đóng đinh, để tỏ lòng tôn kính Chúa Giê-su, ông xin lính đóng
đinh và quay ngược đầu xuống đất. Ngày nay một ngôi Đền thờ Thánh Phêrô to lớn
trong thành Rô-ma, có chứa mộ phần của thánh Phê-rô. Trong thời gian giảng đạo
ở Rô-ma, thánh Phê-rô đã viết 2 bức thư cho các tín hữu miền Tiểu Á đang chịu
bách hại, khuyên dạy họ hãy can đảm sống đức tin bằng việc thực thi sự hiệp
nhất yêu thương nhau, vâng phục các mục tử, đoạn tuyệt tội lỗi và chờ đợi ngày
Chúa quang lâm sắp đến.
- Tông đồ Phao-lô: Phao-lô thực là dụng cụ Chúa dùng để
đưa nhiều người về với Chúa. Ông là một người trung thành, can đảm, thẳng thắn…
Là cầu nối kết giữa dân Do thái và dân ngoại, giữa Cựu ước và Tân ước. Nhờ
Phao-lô mà dân ngoại trong đó có chúng ta không phải chịu nghi thức cắt bì của
đạo Do Thái và không phải mang “ách Luật Mô-sê” như dân Do thái xưa. Từ khi gặp
Chúa và theo làm Tông đồ của Chúa, Phao-lô có lòng yêu mên Chúa cách đặc biệt.
Ông đã nêu gương sáng về lòng tin yêu Chúa Giê-su để các tín hữu noi theo.
Chẳng hạn: “Đối với tôi sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21) “Tôi coi mọi sự như phân
tro, để chỉ mong được lời lãi Tình yêu Chúa Ki-tô" (Pl 3,8).- "Ai có
thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? … Tôi tin chắc rằng: cho dầu
là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ
tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39). "Tôi sống
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Cuối cùng, trong thời kỳ người Rô-ma bách hại đạo Công giáo, Phao-lô đã bị bắt
tù, và sau cùng ngài đã bị án chém đầu ở ngoài thành Rô-ma vào năm 67.
4) Sống “hiệp nhất” để làm
chứng cho Chúa noi gương hai vị Phê-rô và Phao-lô:
- Hiệp nhất trong đức tin: Hai vị Tông đồ đã hiệp nhất một lòng
một ý trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Mặc dù còn có nhiều khác biệt về bản
thân, tính tình, về ơn gọi theo Chúa, về xu hướng truyền giáo… nhưng cả hai đã
tạo nên một sự hiệp nhất trong đa dạng, qua việc cùng trở thành nền tảng xây
dựng toà nhà Hội Thánh, sẵn sàng chết vì Danh Chúa. Hai vị đã được Hội Thánh
tôn vinh trong một ngày đại lễ. Các ngài đã trở nên biểu tượng của sự hiệp nhất
trong đa dạng của Hội Thánh: “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều
chính, yêu thương trong tất cả”. Đó chính là khuôn vàng thước ngọc cho các tín
hữu noi theo.
- Hiệp nhất trong lòng mến: Ngày nay muốn trở nên tông đồ của
Chúa Giê-su, các tín hữu chúng ta phải có lòng mến Chúa noi gương hai vị
Tông đồ. Nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng ta sẽ được ơn Chúa thanh luyện
khỏi những đam mê, thói hư, các vết nhơ tội lỗi. Nhờ siêng năng nghe Lời
Chúa và tham dự thánh lễ rước lễ mỗi ngày, xét mình mỗi tối trước khi
đi ngủ, học tập theo Chúa Giê-su… chúng ta cũng sẽ có thể nhìn tha nhân bằng
ánh mắt bao dung nhân hậu, sẽ ăn nói điềm đạm, vui vẻ chân thành, ứng xử
hiền hòa và khiêm tốn phục vụ … Nhờ đó chúng ta sẽ nên tông đồ giáo dân
nhiệt thành làm chứng cho Chúa, noi gương hai vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô.
4. THẢO LUẬN:
Đối với bạn, Đức Giê-su
là ai ? (Là một ngôn sứ, để xin Người cầu bầu với Chúa Cha cho ta; hay
là một thần tượng để ta chiêm ngưỡng thán phục; hay chính là Đấng Thiên
Sai Con Thiên Chúa, để ta tin theo và sẵn sàng bỏ mọi sự theo làm môn
đệ Người, sẵn sàng vác thập giá là đón nhận các đau khổ gặp phải, kết
hiệp với sự đau khổ của Người trên cây thập giá để góp phần cứu rỗi tha
nhân ?)
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Tòa nhà Hội Thánh sau
hai ngàn năm đến nay vẫn đang tiếp tục được xây dựng những chỗ còn dang
dở. Xin Chúa giúp mỗi tín hữu chúng con tích cực góp phần xây dựng
để ngôi nhà Hội Thánh sớm hoàn thành. Xin cho chúng con luôn sống yêu
thương hòa thuận để gia đình và Giáo xứ chúng con trở thành một
cộng đoàn yêu thương hiệp nhất và bình an. Nhờ đó nhiều người sẽ
nhận biết Chúa và cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng
con.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM