
DẪN NHẬP: Cùng nhau về đích.
Trong cuộc
sống đời thường, đặc biệt, trong lãnh vực thể thao, thể dục, cứ sự thường, đã
nói đến thi đấu, cuộc đua, là phải nói đến chiến thắng, về đích, đoạt huy
chương…
Nhưng đôi
khi cũng xảy ra “những chuyện không như thế” ! Trong lịch sử thi đấu của các
đại hội Olympic thế giới cũng như khu vực, đặc biệt, thế vận hội dành cho những
người khuyết tật, có một kỳ “thế vận hội
đặc biệt” được tổ chức tại Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ năm 2018,
đã để lại trong lòng khán giả thế giới một ấn tượng sâu sắc, cảm động và đầy
tính nhân văn. Và đây là câu chuyện cảm động đó:
“Tại Thế Vận Hội đặc biệt Seattle (dành cho
những người tàn tật) có 9 vận động viên đều bị tổn thương về thể chất hoặc tinh
thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc thi chạy đua 100m.
Khi cờ hiệu phất lên, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu
bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục ngay sát vạch xuất phát. Đầu gối của cậu đập mạnh
xuống đường, da của cậu bị trầy xước, rớm máu. Và cậu bật khóc. Khi tám người
kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi, họ quay trở lại. Tất
cả, không trừ một ai! Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu
bé: “Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn”. Cả 7 người còn lại cùng ngồi xuống quanh
cậu bé, ánh mắt lộ rõ sự lo lắng. Một lúc, cô gái cất tiếng hỏi tiếp: “Em đã
thấy đỡ hơn chưa?”. Cậu bé đưa tay lau nước mắt, mỉm cười gật đầu. Cả chín
người cùng đứng dậy, họ khoác tay nhau cùng sánh bước về vạch đích.”[2].
Vâng, không để ai bị bỏ lại đằng sau, tất cả
cùng dìu nhau để cùng về đích, đó lại không phải là thể hiện sự “đồng hành”
đúng nghĩa sao !
Và đó lại chính là ý nghĩa, trọng tâm, và là
chủ đề được chọn cho Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới của Giáo Hội Công Giáo
sắp sửa khai mạc vào Chúa Nhật 10 tháng 10 tới đây: “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham dự và sứ vụ”.
Như một chút sẻ chia góp vào nhịp
sống đức tin của Dân Chúa Việt Nam, hay như một gợi ý để cùng nhau “Sentire cum
Ecclesia”, qua tài liệu “Tính Hiệp Hành trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội” (Synodality
in the Life and Mission of the Church) của “Uỷ Ban Thần học Quốc tế”, xin khái quát đôi nét về ý
nghĩa “Hiệp Hành” (Synodality), một chiều kích sống đạo hay hoạt động tông đồ mang
tính thời sự của Giáo Hội Công Giáo hôm nay.
I. DANH TỪ
MỚI TRONG KHÁI NIỆM CŨ
1. Đã có
một “tên gọi” như thế:
Không kể
văn bản ngoại ngữ, “HIỆP HÀNH”[5], một từ
rất mới trong ngôn ngữ giáo lý, thần học, mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam.
Thật vậy, đây là một từ ghép gốc Hán lần
đầu tiên xuất hiện trong một văn kiện Huấn quyền (Christus Vivit) tiếng Việt.
Cũng cần ghi nhận rằng: có một số dịch giả khi chuyển ngữ từ “SYNODALITÉ,
SYNODALITY” sang tiếng Việt thì dùng từ “Đồng Nghị”: Vũ Văn An trong “Tính
Đồng Nghị trong Đời sống và Sứ
mệnh của Giáo Hội“,
hay “tính
Hội Đồng” như dịch giả của bài viết “Un
Moment MEP sur la “mission de l’ Eglise” – La synodalité missionnaire: un style pour la mission en Asie của
tác giả BRUNO LEPEU: Một thoáng MEP về
“sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội” – Tính hội đồng trong truyền giáo: một phong cách truyền giáo tại châu Á?[7]. Cũng có
chỗ dịch là “tính Đồng Bộ”[8] hoặc “tính
Liên
Hợp”[9]...
Riêng Tự
Điển Công Giáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, trong mục từ “HIỆP”, có 5 từ
ghép với “Hiệp” (HIỆP ĐẠO, HIỆP LỄ, HIỆP
SĨ, HIỆP THÔNG, HIỆP ƯỚC)[10], nhưng
không có “Hiệp Hành”. Chỉ có mục từ có liên quan xa là “THƯỢNG HỘI ĐỒNG
GIÁM MỤC” (Synodus Episcoporum…)[11].
Không chỉ
trong “làng văn hoá đức tin”, từ “Hiệp Hành”
cũng không thấy xuất hiện trong các tự điển Hán Việt, Hán Nôm, ít nhất là 2
cuốn: HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN của Đào Duy Anh, và HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN của giáo sư Nguyễn
Lân.
2. Tìm lại
một “khái niệm” bị lãng quên:
Nếu trong
Kinh Thánh, trong các văn kiện Huấn Quyền, trong văn chương thần học, tu đức và
nhiều lãnh vực khác trong nhịp sống đức tin, chúng ta thường xuyên gặp các hạn
từ với các nội dung ý nghĩa hàm chứa trong đó như “xuất hành”, “lữ hành”, “đồng hành”… thì trong những ngày này, Dân
Chúa được nhắc nhở “tập chú” tới chiều kích “hiệp hành” (synodality), một khái
niệm không phải là mới, nhưng hình như đã có một thời bị lãng quên (ít ra cho
tới trước Công Đồng Vatican II), như nhận xét sau đây của Uỷ Ban Thần Học Quốc
Tế: “những thập kỷ gần đây, người ta thấy
xuất hiện một hạn từ mới, “tính hiệp hành - synodality”… Kiểu nói “lạ tai” này,
một khi được thần học làm sáng tỏ cách nghiêm túc, sẽ là dấu chỉ của một điều
mới mẻ đang chín mùi trong ý thức Giáo hội, (một chiều kích) đã được khơi mào
từ Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II…”[13].
Theo nhận
định của tác giả Bruno LEPEU, khái niệm “HIỆP HÀNH” là một tầm nhìn quan trọng
của triều đại Giáo hoàng Phanxicô, được phản ảnh qua nhiều phát biểu quan trọng
(từ khi ngài còn làm Giám mục ở Argentina cho tới những sự kiện gần đây trên
Ngai toà thánh Phêrô)[14]. Trong
khi đó, tác giả Christopher R. Altieri thì nhận xét rằng: Đức Phanxicô “khăng khăng kêu gọi cần phải có một Giáo
hội mang tính hiệp hành. “Hiệp hành” là một từ ‘thời thượng’ - thậm chí là một
‘từ khóa’ – thuộc triều đại giáo hoàng của ngài[15].
Xin đan
cử, ít ra hai lần có thể được coi như “điểm nhấn tiêu biểu”, Đức Phanxicô đã
trân trọng nhắc đến “chiều kích hiệp hành” (synodality, synodalité) trong các
giáo huấn của ngài trong những năm đầu thực thi sứ vụ:
- Trong
diễn từ ngày 17.10.2015, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Đức Phaolô VI thiết lập
cơ cấu “Thượng Hội Đồng Giám Mục” (Synode des Évêques): Hiệp hành là “căn tính”
của Giáo Hội và là “con đường Giáo Hội phải đi trong thiên niên kỷ ba:
“Là một chiều kích tạo nên Giáo Hội, tính
“hiệp hành” (synodalité) cung cấp cho ta một cái khung giải thích rất phù hợp
để thấu đáo về chính thừa tác vụ phẩm trật. Nếu đồng quan niệm như Thánh Gioan
Kim Khẩu đó là “Giáo Hội và thượng hội đồng (synode) luôn đồng nghĩa với nhau”,
vì Giáo Hội chính là cuộc đồng hành của Đoàn Chiên Chúa trên các nẻo đường lịch
sử hướng về cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, thì ta sẽ hiểu được rằng ở giữa lòng
Giáo Hội, không ai tự cho mình vượt trội những người khác. Trái lại, trong Giáo
Hội, mỗi người cần phải “hạ mình xuống” để phục vụ anh chị em trên nẻo đường
hành lữ.”[16].
Uỷ Ban
Thần học Quốc tế đã nhắc lại những lời tuyên bố nầy: “Hiệp hành chính là con đường Thiên Chúa muốn Giáo hội bước đi trong
thiên niên kỷ thứ ba: Đây là chương trình đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô xác
nhận nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm ngày Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập cơ cấu
Thượng Hội đồng Giám mục. Đức Phanxicô nhấn mạnh rằng, thực ra, tính hiệp hành
là “một chiều kích thiết yếu của Giáo hội”[17].
- Trong
tông huấn Christus Vivit về “Mục vụ Giới trẻ”: một nền mục vụ mang tính hiệp
hành:
“Mục vụ giới trẻ phải “mang tính hiệp hành”
(synodale), nghĩa là có khả năng liên kết trong một “hành trình chung”, điều đó
bao hàm “sự quý trọng các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho mỗi thành viên
trong Giáo Hội theo ơn gọi và vai trò của mình, đồng thời sẽ thúc đẩy mọi thành
viên tham gia gánh vác trách nhiệm...” (CV số 206).
II. “HIỆP
HÀNH” TRONG CÁI NHÌN TỔNG QUAN (GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT)
Để biết
Giáo Hội quan niệm thế nào về “chiều kích Hiệp Hành” và đề xuất những “áp dụng
mục vụ cụ thể”, thiết tưởng chúng ta phải căn cứ vào một tác phẩm “có thẩm
quyền” về chuyên đề nầy: Synodality in
the Life and Mission of the Church[18]
của Uỷ Ban Thần học Quốc tế vừa được “trình làng” vào tháng 3 năm 2018, dưới sự
chuẩn nhận của chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô, như “ghi chú sơ khởi” của tác
phẩm đã hé mở cho biết: “Bản văn hiện tại
được đa số các thành viên bỏ phiểu tán thành và được Ủy ban phê chuẩn trong
Phiên họp toàn thể năm 2017. Sau cùng, đã được chuẩn nhận bởi Đức Hồng y Luis
F. Ladaria S.J, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, người đã cho phép phổ biến công
khai vào ngày 2 tháng 3 năm 2018, sau khi nhận được sự đáp ứng thuận lợi từ Đức
Giáo hoàng Phanxico”[19].
Sau đây,
xin nêu lên cách khái quát “một số” nội dung chính (mang tính “tiếp cận khái
niệm”) được trình bày trong tác phẩm nầy:
- Giới thiệu tổng quan về ngữ nghĩa.
- Một thoáng Thánh Kinh, Thánh Truyền và lịch
sử liên quan đến khái niệm “hiệp hành”.
- Các điểm nhấn của thần học về “tính hiệp
hành”.
1. Giới
thiệu tổng quan về từ ngữ và ý nghĩa.
Uỷ Ban
Thần học quốc tế dùng nguyên Phần Dẫn Nhập để “xác định các dữ kiện có tính tầm nguyên và khái niệm cần thiết cho
việc minh giải sơ khởi nội dung và việc sử dụng hạn từ “Hiệp Hành” (Synodality);
sau đó, đặt ý nghĩa nầy vào ngữ cảnh của
một giáo lý mới và quan trọng mà Huấn Quyền đề nghị để tiếp nối giáo huấn của
Công Đồng Vatican II”[21].
Xin lược
tóm các nội dung trên qua các điểm chính như sau:
1.1. Tương
quan của 3 hạn từ: Công Nghị, Công Đồng, Hiệp Hành,
1.1.1. Công nghị (Synod): từ cội nguồn Mạc
khải: Trên con đường của Chúa Giêsu:
“Synod” là một từ cổ xưa và đáng kính trong
Truyền thống của Giáo hội, mà ý nghĩa của nó được căn cứ trên các chủ đề sâu
sắc nhất của Mặc Khải. Bao gồm một giới từ συν (sun - với) và danh từ όδός
(odos - đường), từ nầy diễn tả con đường mà Dân Chúa cùng đi. Cũng vậy, từ đó
cũng ám chỉ Chúa Giêsu, Đấng đã tự tỏ mình là “đường, sự thật và sự sống” (Ga
14,6), và liên quan đến các Kitô hữu, những kẻ theo Ngài, mà ngay từ thuở ban
đầu, vẫn được gọi là “người theo Đạo (Đường)” (xem Công vụ 9,2; 19,9.23; 22,4;
24,14.22).
Trong ngôn ngữ Hy Lạp của Giáo Hội, từ σύνοδος
-Sunodos diễn tả việc các môn đệ của Chúa Giêsu được kêu gọi quy tụ thành một cộng
đoàn, và trong một số trường hợp, từ nầy cũng được hiểu là “cộng đoàn Giáo hội”.
Chẳng hạn, Thánh Gioan Kim Khẩu viết rằng Giáo Hội là ‘tên viết tắt’ (name
standing) của ‘cùng đi với nhau’ (walking together - σύνοδος)”. Ngài giải thích
rằng Giáo hội thực sự là cộng đồng được triệu tập như một ca đoàn để tạ ơn và
tôn vinh Chúa, một thực tại hài hòa liên kết với nhau (σύστημα - systima), vì
thế, bằng các mối quan hệ hỗ tương và phẩm trật, những người làm nên cộng đoàn
đó quy tụ trong “tâm đầu (αγάπη - agape) ý hợp (όμονοία - ómonoía)” (tâm trí
hoà hợp)[22].
1.1.2. Từ “Công nghị” (Synod) tới “Công Đồng”
(Council) qua dấu chỉ “Hiệp hành” (Synodality):
- Công
nghị (Synode): Một sinh hoạt đã hiện hữu từ lâu trong đời sống Giáo Hội: “Từ những thế kỷ đầu tiên, từ “synod”, với
một ý nghĩa cụ thể, được áp dụng cho các cuộc triệu tập công nghị của Giáo Hội
ở nhiều cấp độ khác nhau (giáo phận, giáo tỉnh, giáo miền, đại giáo khu (Thượng
phụ) hoặc toàn thế giới) để nhờ ánh sáng Lời Chúa và lắng nghe Chúa Thánh Thần,
biện phân các vấn đề về giáo lý, phụng vụ, giáo luật và mục vụ đang hiện diện
giữa dòng thời gian”.
- Công
nghị (Synode), Công đồng (Concilium) trong viễn tượng “Cuộc triệu tập Dân
Chúa”: “Chữ Hy Lạp σύνοδος (sunodos) được
dịch sang tiếng Latin là synodus hoặc concilium. Concilium, trong ngôn ngữ thế
tục, đó là một hội đồng được triệu tập bởi một thẩm quyền hợp pháp. Mặc dù hai
từ “công nghị - synod” và “công đồng - council” khác nhau về ngữ nguyên, nhưng
lại đồng quy về ý nghĩa. Thực ra, từ “công đồng - council” đã làm phong phú
thêm nội dung ngữ nghĩa của từ “công nghị - synod” khi tham chiếu một từ Do
Thái là קָהָל (qahal), có nghĩa là “cộng đoàn được Chúa triệu tập” mà Tân Ước
dịch sang tiếng Hy Lạp là έκκλησία (ekklesia), một thực tại chỉ về cuộc tập hợp
cánh chung của Dân Chúa trong Chúa Kitô”.
- Công
ghị, Công đồng và sự phân biệt ý nghĩa của Giáo Luật (1983): “Trong Giáo hội Công giáo, sự phân biệt trong
cách dùng các từ ngữ “công đồng - council” và “công nghị - synod” chỉ mới xuất
hiện gần đây. Tại Công Đồng Vatican II, hai từ nầy đồng nghĩa với nhau, cả hai
đều đề cập đến phiên họp của công đồng. Chính Bộ Giáo Luật của Giáo Hội (1983)
đã chỉ ra sự phân biệt các hạn từ: Một đàng là phân biệt giữa các Công đồng địa
phương (Công Đồng miền hoặc Công đồng giáo tỉnh) và Công đồng Chung; đàng khác,
phân biệt giữa Hội nghị Giám mục và Công nghị giáo phận.”[25].
- Công
nghị, Công đồng” và chiều kích Giáo Hội
của Vatican II: “Hiệp hành” (Synodality): “Trong
văn chương thần học, giáo luật và mục vụ của những thập kỷ gần đây, người ta
thấy xuất hiện một hạn từ mới, “tính hiệp hành - synodality”, danh từ nầy tương
hợp với tính từ “mang tính hiệp hành- synodal”, cả hai xuất phát bởi từ
“synod”. Do đó, người ta nói “tính hiệp hành - synodality” là chiều kích cấu
thành Giáo hội hay nói ngắn gọn, Giáo Hội chính là “Hội Thánh hiệp hành”. Kiểu
nói “lạ tai” này, một khi được thần học làm sáng tỏ cách nghiêm túc, sẽ chính
là dấu chỉ của một điều mới mẻ đang chín mùi trong ý thức Giáo hội, (một chiều
kích) đã được khơi mào từ Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II, trải qua kinh
nghiệm sống động của các Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ kể từ ngày kết
thúc Công Đồng cho đến ngày hôm nay”[26].
1.2. Tương
quan giữa Hiệp thông, Hiệp hành, Tập đoàn tính (Giám Mục đoàn).
1.2.1. Từ “Hiệp thông” tới “Hiệp hành” trên
nền tảng “Bí tích”:
“Mặc dù “tính hiệp hành” không được tìm thấy
cách minh nhiên như một thuật ngữ hoặc một khái niệm trong giáo huấn của Công
Đồng Vatican II, nhưng phải công nhận rằng, tính hiệp hành là cốt lõi của công
việc canh tân mà Công đồng đã khuyến khích.
Khoa giáo hội học về Dân Chúa nhấn mạnh đến
phẩm giá và sứ mệnh chung của tất cả những người được rửa tội, những kẻ đang
thực hiện sự phong phú đa dạng mang tính phẩm trật của các đặc sủng, ơn gọi và
thừa tác vụ của họ. Trong bối cảnh này, khái niệm hiệp thông thể hiện bản chất
sâu xa của mầu nhiệm và sứ mệnh của Giáo hội, mà nguồn cội và đỉnh điểm của nó
là cộng đoàn Thánh Thể (Eucharistic synaxis). Đây chính là thực tại (res) của
Bí tích Hội Thánh (Sacramentum Ecclesiae): kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi và
hiệp nhất muôn người, được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần trong Chúa Giêsu Kitô.
Trong ngữ cảnh mang tính giáo hội này, hiệp
hành chính là tính đặc thù của “kiểu thức sống và hoạt động” (modus vivendi et
operandi) của Giáo hội, đoàn Dân Chúa. Chính tính hiệp hành nầy sẽ làm cho
người ta nhận rõ hơn chiều kích hiệp thông của Giáo Hội, khi tất cả các thành
viên của Giáo Hội cùng nhịp bước, quy tụ và tham gia tích cực vào sứ mệnh
truyền giáo”[27].
1.2.2. Từ “Hiệp hành” đến “Tập đoàn tính”:
trên nền tảng Hội Thánh Chúa Kitô:
“Trong khi khái niệm về tính hiệp hành đề cập
đến sự dấn thân và tham gia của toàn thể Dân Chúa trong đời sống và sứ mạng của
Giáo hội, thì khái niệm về “tập đoàn tính (Giám Mục đoàn - collegiality) xác
định ý nghĩa thần học với hai chiều kích sau:
- Việc thực hành thừa tác vụ của các Giám mục
tại Giáo hội địa phương được giao phó cho các ngài chăm sóc.
- Sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương
với Giáo hội hoàn vũ của Chúa Kitô, được thể hiện qua sự hiệp thông phẫm trật
giữa tập thể Giám mục với Giám mục Rôma.
Do đó, “tập đoàn tính” (hay Giám Mục đoàn)
chính là hình thức cụ thể để nhờ đó tính hiệp hành (synodality) của Giáo hội
được biểu lộ và làm cho hiện thực qua thừa tác vụ của các Giám mục, trên bình
diện hiệp thông của các Giáo hội địa phương trong một khu vực, cũng như hướng
đến sự hiệp thông của tất cả các Giáo hội trong Giáo hội hoàn vũ. Dấu chỉ đích
thực của tính hiệp hành (synodality) đương nhiên đòi hỏi việc thực thi thừa tác
vụ tập đoàn tính của các Giám mục”[28]. (x. BRUNO
CHENU).
1.3. Hiệp
hành trong viễn tượng của Công Đồng Vatican II:
1.3.1.
Giáo Hội cần tiếp tục con đường khai mở của Vatican II: “Cuộc canh tân của Công đồng Vatican II đã mang lại nhiều hứa hẹn phong
phú và quý giá, đó là: thúc đẩy sự hiệp thông giáo hội, tập đoàn tính của Giám
mục, tư duy và hành động mang tính ‘hiệp hành’. Tuy nhiên, con đường mà Công
đồng vạch ra để Giáo Hội thực hiện vẫn còn dài thăm thẳm. Trên thực tế, ngày
nay, nỗ lực tìm kiếm một hình thức thích hợp cho một Giáo hội hiệp hành - mặc
dù nó được chia sẻ rộng rãi và được đưa vào thực hành theo những cách tích cực
- dường như đang cần các nguyên tắc thần học rõ ràng và các định hướng mục vụ
dứt khoát”.
1.3.2.
Hiệp hành chính là sự “lựa chọn về nguồn” thích hợp nhất của Hội Thánh hôm nay:
“Do đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi
chúng ta vượt qua đoạn đường mới. Kế thừa di sản của Công Đồng Vatican II, tiếp
bước những người tiền nhiệm, Đức Giáo Hoàng khẳng định rằng tính hiệp hành diễn
tả hình ảnh của Giáo hội đến từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, một Giáo Hội vừa hội
nhập trong dòng lịch sử, vừa trung thành cách sáng tạo với Truyền thống”.
1.3.3.
Hiệp hành: điều kiện tiên quyết trong mục vụ truyền giáo: “Phù hợp với giáo huấn của Lumen Gentium, Đức Giáo hoàng Phanxicô đặc
biệt nhận xét rằng tính hiệp hành “cung cấp cho chúng ta khuôn khổ phù hợp nhất
để hiểu chính chức vụ theo phẩm trật của mình và, dựa trên học thuyết “cảm quan
đức tin của tín hữu” (Sensus fidei fidelium), tất cả các thành viên của Giáo
hội là tác nhân của việc truyền giáo. Do đó, việc biến một Giáo hội mang tính
hiệp hành thành hiện thực là một điều kiện tiên quyết không thể thiếu đối với
một năng lực truyền giáo mới liên quan đến toàn thể Dân Chúa”.
1.3.4.
Hiệp hành: con đường dẫn đến đại kết: “Bên
cạnh đó, tính hiệp hành là cốt lõi của quyết tâm đại kết của các Kitô hữu, là
tiếng gọi mời đồng hành trên con đường hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn; và -
khi được hiểu chính xác – chiều kích nầy sẽ cung cấp kiến thức và kinh nghiệm
về Giáo hội, là nơi những khác biệt chính đáng tìm thấy chỗ đứng trên căn bản
tương giao quà tặng và trong ánh sáng của chân lý.”[33].
2. Các
chiều kích hiệp hành trong Giáo Hội hôm nay:
2.1. Chiều
kích hiệp hành theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
Ngoài những
ý nghĩa mà Uỷ Ban Thần Học vừa quảng diễn, chúng ta có thể lắng nghe chính Đức
Giáo Hoàng Phanxicô cắt nghĩa, đặc biệt, qua hai diễn từ quan trọng: diễn từ
ngày 17.10.2015, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Đức Phaolô VI thiết lập cơ cấu
“Thượng Hội Đồng Giám Mục”; và mới đây nhất, diễn từ hôm thứ Bảy 18/9 vừa qua,
khi nói với giáo phận Roma.
Linh mục
Trần Đức Anh đã tóm tắt mấy ý như sau:
2.2: Hiệp
hành: Giáo Hội “lắng nghe, quan tâm mục vụ” thay vì duy giáo sĩ và cứng nhắc:
“trong diễn văn dài 40 phút với 4 ngàn đại
biểu của Giáo phận Roma hôm 18/9/2021, Đức Thánh Cha giải thích “sinodalità”,
sự đồng hành, như một lối sống và hành động của Giáo Hội: lắng nghe nhau và có
thái độ mục vụ, đặc biệt đứng trước cám dỗ của chủ nghĩa duy giáo sĩ và thái độ
cứng nhắc. Đức Thánh Cha nói: “đề tài hiệp hành, sinodalità hay đồng hành,
không phải là một chương trong khảo luận Giáo hội học, và càng không phải là
một kiểu thời trang, một khẩu hiệu hay một từ ngữ mới cần sử dụng hoặc lèo lái
trong các cuộc gặp gỡ của chúng ta. Không phải vậy, sinodalità biểu lộ bản chất
của Giáo Hội, hình thể, kiểu sống và sứ mạng của Giáo Hội.” Và Đức Thánh Cha
dựa vào sách Tông Đồ công vụ, với nhiều giai thoại để chứng tỏ Giáo Hội là đồng
hành”.
2.3. Hiệp
hành: Vai trò của cộng đoàn (giáo phận, giáo xứ):
“Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “Trong tiến
trình hiệp hành, giai đoạn giáo phận rất quan trọng, vì thực hiện sự lắng nghe
toàn thể các tín hữu đã chịu phép rửa. Ngài nhận xét: có nhiều đối kháng chống lại việc vượt qua hình ảnh một
Giáo Hội được phân biệt cứng nhắc giữa các thủ lãnh và những người bề dưới,
giữa người giảng dạy và người phải học hỏi, mà quên rằng Thiên Chúa muốn đảo
lộn các vị trí: “Ngài lật đổ những người cường quyền khỏi tòa cao, và nâng cao
những người hèn mọn” (Lc 1,52)”.
2.4. Hiệp
hành: Một Giáo Hội “hàng ngang”, ở giữa nhau và cùng nhau:
“Việc đồng hành khám phá chiều ngang của Giáo
Hội hơn là chiều dọc. Giáo Hội đồng hành tái lập chân trời từ đó mặt trời của
Chúa Kitô mọc lên: dựng lên những đền đài phẩm trật có nghĩa là che phủ mặt
trời Chúa Kitô. Các mục tử bước đi với dân, khi thì đi trước, khi thì đi giữa,
lúc thì đi sau. Đi trước để hướng dẫn, đi giữa để khuyến khích và không quên
mùi của đoàn chiên, đi sau vì dân có “mũi”, có khứu giác trong việc tìm ra những
con đường mới để đi, hoặc để tìm lại con đường đã lạc mất”.
2.5. Ý
nghĩa “Synodus” nơi các Hội Thánh khác:
“nơi
các Giáo Hội Chính Thống hoặc Công Giáo Đông phương, “Santo Sinodo”, Thánh Hội
Đồng, là cơ quan cai quản Giáo Hội gồm vị Thượng Phụ hoặc tương đương, cùng với
các Giám Mục thành viên được bầu lên. Trong Hội đồng này, Đức Thượng Phụ cũng
chỉ có 1 phiếu như các giám mục thành viên khác. Đối với nhiều Giáo Hội Tin
Lành khác, như Giáo Hội Valdese ở Ý, Sinodo là khóa họp lập pháp thường niên
của tất cả các mục sư với các thành viên giáo dân được bầu, để ban hành các qui
luật, cũng như điều hành Giáo Hội”.
2.6. Ý
nghĩa hiệp hành trong “ngôn ngữ cụ thể của dân Chúa”:
Hôm
16/9 vừa qua, Phó Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, nữ tu Nathalie
Becquart, giải thích một cách đơn sơ cho các phụ nữ Công Giáo và tín hữu Ba Lan
về từ “tính hiệp hành”, Sinodalità, là chuyển tiếp từ chữ “tôi” đến chữ “chúng
ta”. Nữ tu Becquart đưa ra một thí dụ cụ thể để hiểu tính hiệp hành mà Đức
Thánh Cha muốn Giáo Hội thi hành: ví dụ trong một giáo phận, tính hiệp hành hệ
tại luôn đồng hành với nhau, và một người không thể tự mình quyết định mà không
tham khảo ý kiến người khác, các Linh Mục phải tham khảo ý kiến giáo dân. Hiệp
hành là đi từ chữ “tôi” đến chữ “chúng ta”. “Chúng ta” ở đây là mọi tín hữu đã
chịu phép rửa. Đây là định nghĩa ngắn nhất về “Tính hiệp hành”.
III. HIỆP
HÀNH TRONG VIỄN TƯỢNG THÁNH KINH, TRUYỀN THỐNG VÀ LỊCH SỬ
1. Một
thoáng Thánh Kinh liên quan đến khái niệm hiệp hành.
1.1. Cựu
ước và cuộc “Triệu tập dân Chúa” (qahal /‘edah – Ekklesia):
1.1.1.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn quy tụ nhân loại sau biến cố sa ngã để cứu
độ:
“Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, không
ngừng canh tân giao ước của Ngài để mang tất cả những gì đã bị phân tán trở lại
con đường hiệp nhất, chữa lành tự do của con người và hướng nó đến để chào đón
và sống món quà kết hiệp với Thiên Chúa và hiệp nhất với anh chị em của chúng
ta trong công trình sáng tạo, như trong một gia đình” (St 9,8-17; 15; 17; Xh
19-24; 2 Sm 7,11)[39].
1.1.2.
Cuộc “triệu tập dân Chúa” (קָחַל/עֵדה (qahal /‘edah) qua ơn gọi
Abraham, được củng cố với Giao ước Sinai, tiên báo “đoàn dân của Giao ước mới
là Giáo Hội (έκκλησία – Ecclesia):
“Khi thực hiện kế hoạch của Ngài, Thiên Chúa
kêu gọi Áp-ra-ham và con cháu của Ngài (St 12,1-3; 17,1-5; 22,16-18). Cuộc
triệu tập này (קָחַל/עֵדה - qahal /‘edah - thuật ngữ đầu tiên thường
được dịch sang tiếng Hy Lạp là έκκλησία - ekklesia), được củng cố trong giao
ước Sinai (Xh 24,6-8; 34,20tt), làm cho Dân được giải thoát khỏi kiếp nô lệ và xứng
đáng đối thoại với Thiên Chúa; trong cuộc xuất hành, họ tập hợp để tôn thờ
Thiên Chúa và sống theo luật pháp của Ngài, và để họ nhận ra rằng họ thuộc về
một mình Ngài (Đnl 5,1-22; Gs 8; Nkm 8.1-18).
קָחַל / (qahal / edah) là hình thức đầu tiên
trong đó ơn gọi mang tính hiệp hành (synodal vocation) của Thiên Chúa được biểu
lộ. Trong sa mạc, Thiên Chúa ra lệnh điều tra dân số của các chi tộc Israel, theo
từng đơn vị (Ds 1-2). Tâm điểm của cuộc tập họp (dân Chúa), với tư cách là
người hướng đạo và mục tử duy nhất, là Chúa, người hiện diện qua chức vụ của
Mô-sê (Ds 12; 15-16; Gs 8,30-35), …. Công hội của Thiên Chúa không chỉ bao gồm
đàn ông (Xh 24,7-8) mà còn cả phụ nữ, trẻ em và thậm chí cả người ngoại kiều (Gs
8,33,35)...”[40].
1.1.3. Các
ngôn sứ loan báo sứ điệp hoán cải để trung thành với Giao ước khi thiết lập
những mối tương quan bác ái với anh em đồng loại:
“Các ngôn sứ loan báo cho Dân Chúa sứ điệp về
sự cần thiết của những khó khăn trong lịch sử để trung thành với giao ước. Đó cũng
là lý do các ngôn sứ mời gọi hoán cải cõi lòng trở về với Thiên Chúa và thực
thi công chính trong tương quan với những người xung quanh, nhất là những người
nghèo, những người bị áp bức, khách kiều cư…, hoán cải nên nhân chứng hữu hình
cho lòng thương xót của Thiên Chúa (Gr 37,21; 38, 1)[41].
1.2. Tân ước và cuộc “quy tụ xung quanh Đức Kitô”:
1.2.1. Một
đoàn dân của Giao ước mới quy tụ chung quanh Đức Kitô nhờ mầu nhiệm Vượt Qua:
“Thiên Chúa hoàn tất giao ước mới mà Ngài đã
hứa trong Chúa Giêsu thành Nazareth, Đấng Cứu Thế và Ngôi Lời. Bằng chính cuộc
sống và con người, Tin mừng của Ngài (kérygma) đã mặc khải rằng Thiên Chúa
chính là một hiệp thông của tình yêu; trong ân sủng và lòng thương xót, Ngài muốn
ôm ấp toàn thể nhân loại trong sự hiệp nhất. Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, từ cõi
vĩnh hằng đã hiện hữu nơi cung lòng Chúa Cha (Ga 1,1.18), đã làm người khi tới
thời viên mãn (Ga 1,14; Gl 4) để hoàn thành chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa
(Ga 8,29; 6,39; 5,22.27). Ngài không bao giờ tự ý hành động một mình, nhưng trong
mọi việc, Ngài thi hành ý muốn của Chúa Cha: Chúa Cha ngự trong Ngài và thực
hiện công việc qua Người Con mà Chúa Cha đã ban cho thế gian (Ga 14,10).(…). Mầu
nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu là cuộc xuất hành mới, quy tụ trong sự hiệp nhất
tất cả những ai tin vào Ngài (Ga 11,52), và Ngài biến đổi họ qua Bí tích Rửa
tội và Thánh Thể. Công trình cứu rỗi chính là sự hiệp nhất trong lời nguyện tế
hiến trước cuộc Khổ nạn của Ngài: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và
con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha
đã sai con.” (Ga 17,21)[42].
1.2.2. Một
Giáo Hội đang lữ hành trên đường cùng nhau nhờ Lời và Bánh Hằng sống của Đấng
Phục Sinh đang đồng hành:
“Chúa Giêsu là người lữ hành loan báo tin mừng
về Nước Thiên Chúa (Lc 4,14-15; 8,1; 9,57; 13,22; 19,11), dạy “con đường của
Thiên Chúa" (Lc 20,21) và dẫn lối đưa đường (Lc 9,51-19,28). Thật ra,
chính Ngài là “con đường” (Ga 14,6) dẫn đến Chúa Cha; trong Chúa Thánh Thần (Ga
16,13) Ngài chia sẻ với mọi người sự thật và tình yêu hiệp thông với Thiên Chúa
và với anh chị em của chúng ta. Sự hiệp thông sống động theo tiêu chuẩn của
điều răn mới của Chúa Giêsu có nghĩa là cùng nhau bước đi trong lịch sử như là đoàn
Dân của giao ước mới, theo cách phù hợp với hồng ân đã lãnh nhận (Ga 15,12-15).
Thánh sử Luca cho chúng ta một biểu tượng sống về Giáo hội là Dân Chúa được
Chúa phục sinh dẫn dắt trên đường qua trình thuật hai môn đệ trên đường Emmaus,
người đã thắp sáng họ bằng Lời và nuôi dưỡng họ bằng Bánh Sự Sống (Lc 24,13-35)[43].
1.2.3. Mô
hình đầu tiên của một Giáo Hội hiệp hành”: Công nghị các Tông Đồ:
“Công vụ Tông đồ ghi lại một số thời khắc quan
trọng trên con đường của Giáo hội Tông truyền khi Dân Chúa được gọi là cộng
đồng để biện phân ý muốn của Đấng phục sinh. Nhân vật hàng đầu dẫn đường và đưa
ra phương hướng là Chúa Thánh Thần, tuôn tràn trên Giáo hội vào ngày Lễ Ngũ
Tuần (Cv 2,2-3). Các môn đệ, khi thực hiện các vai trò khác nhau của mình, phải
lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh và biện phân đường nào phải đi (Cv 5,19-21;
8,26,29,39; 12,6-17; 13,1-3 ; 16,6-7,9-10; 20,22). Đây là những ví dụ điển
hình: sự lựa chọn “bảy người có tiếng tăm, tràn đầy Thánh Linh và khôn ngoan”,
được các Tông đồ giao phó với nhiệm vụ “phân phát thực phẩm” (Cv 6,1-6); và
biện phân các vấn nạn quan trọng trong sứ mạng dành cho dân ngoại (Cv 10). Vấn
nạn này được giải quyết theo truyền thống được gọi là “Công nghị các tông đồ
tại Giê-ru-sa-lem” (Cv 15, và cả Gl 2,1-10). Ở đó, chúng ta có thể thấy sự xuất
hiện của tính hiệp hành, trong đó, Giáo hội tông truyền, trong một thời điểm
quyết định của sự phát triển, thực hiện ơn gọi trong viễn tượng truyền giáo,
được giác ngộ bởi sự hiện diện của Chúa phục sinh. Trải qua nhiều thế kỷ, sự
kiện này đã được coi như là mô hình mẫu cho các Công nghị được Giáo hội cử hành.”[44].
1.2.4.
Giáo Hội hiệp hành qua các đoàn sủng và chức vụ:
“Quyền năng của Chúa Kitô được thể hiện trong
Giáo hội thông qua nhiều linh ân hay các đặc sủng khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban
phát cho Dân Chúa để xây dựng một Thân thể Chúa Kitô. Khi thực hiện đặc sủng,
chúng ta cần tôn trọng mỗi cá nhân, để đặc sủng có thể phát triển hài hòa và
sinh hoa trái mưu ích cho tất cả mọi người (1 Cr 12,28-30; Êp 4,11-13). Các
Tông đồ chiếm vị trí ưu tiên trong số họ - cùng với vai trò đặc biệt và ưu việt
được Chúa Giêsu dành cho Thánh Phêrô (Mt 16,18..., Ga 21,15...): Thật ra, họ
được giao phó sứ mệnh hướng dẫn Giáo hội trung thành với kho tàng đức tin (1 Tm
6,20; 2 Tm 1,12,14). Nhưng thuật ngữ Charisma cũng gợi lên tính cách nhưng
không và đa dạng trong sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần, Người ban cho mỗi
người ân huệ riêng để hướng đến lợi ích chung (x. 1 Cr 12,4-11; 29-30; Ep 4,7),
để tùng phục và nâng đỡ nhau (1 Cr 12,25): vì ơn cao trọng nhất chi phối tất cả
chính là tình yêu” (1 Cr 12,31)[45].
2. Truyền
Thống và lịch sử liên quan đến khái niệm hiệp hành:
2.1. Giáo
huấn về hiệp hành nơi các Giáo Phụ trong ba thế kỷ đầu:
- Giáo phụ
Ignatiô thành Antiokia: Nhấn mạnh tính “hiệp hành” qua “Cộng đoàn Thánh Thể”: “Vào đầu thế kỷ thứ hai, thánh Ignatiô thành
Antiokia cho thấy rằng nhận thức mang tính hiệp hành của các Giáo hội địa
phương đó là tự coi mình là hiện thân của một Giáo hội. Trong bức thư gửi cho
giáo đoàn Ephêsô, ngài nói rằng tất cả các thành viên của giáo đoàn đều là ‘bạn
đồng hành’, nhờ chính phẩm giá của phép Rửa và tình bạn với Chúa Kitô. Hơn nữa,
ngài đề cao trật tự thiêng liêng là yếu tố làm cho Giáo hội trở nên một thân
thể duy nhất, được kêu gọi ca ngợi sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Chúa Giêsu
Kitô: linh mục đoàn là nghị viện của Giám mục và các thành viên khác của cộng
đoàn, dù vai trò có khác nhau, tất cả đều được kêu gọi chung tay xây dựng. Tính
hiệp thông của giáo hội được thể hiện cách rõ ràng nhất qua cộng đoàn Thánh thể
do Đức Giám mục chủ trì; cộng đoàn nầy nuôi dưỡng niềm tin và niềm hy vọng cánh
chung, lúc Thiên Chúa tập hợp trong Vương quốc của Ngài tất cả các cộng đoàn
đang sống và cử hành Thánh Thể trong đức tin.”[46].
- Giáo phụ
Cypryano thành Carthage: Nhấn mạnh tính “hiệp hành” qua vai trò của “Tông Đồ
đoàn”, và “Giám mục đoàn”: “Các đặc điểm
để nhận Giáo hội thật đó là: trung thành với giáo huấn của các Tông đồ và cử
hành Bí tích Thánh Thể dưới sự hướng dẫn của Đức Giám mục, người kế vị các Tông
đồ; việc truyền chức; ưu tiên xây dựng hiệp thông trong việc phục vụ lẫn nhau
để ca ngợi và tôn vinh Ba Ngôi: Cha, Con, Thánh Thần. Thánh Cyprianô thành
Carthage, người kế thừa và giải thích truyền thống vào giữa thế kỷ thứ ba, đã
xây dựng nguyên tắc liên quan đến giám mục và tính hiệp hành đó là phải điều
hợp cuộc sống và sứ vụ vừa mang tính địa phương vừa trên phạm vi phổ quát: Giáo
hội địa phương không làm gì được nếu không có Giám mục - nihil sine episcopo -
cũng vậy, không làm gì được nếu không có công đồng (Bao gồm cả linh mục và Phó
tế) - nihil sine consilio vestro - hoặc không có sự đồng thuận của mọi người -
et sine consensu plebis - luôn luôn giữ theo quy tắc nầy: Hàng Giám mục là một,
trong đó mỗi thành viên đều có chỗ - episcopatus unus est cuius a singulis in
solidum pars tenetur.”[47].
2.2. Tính
“hiệp hành” qua vai trò của các “Toà Thượng Phụ” và “Toà Thánh Rôma”:
“Từ thế kỷ thứ tư trở đi, các giáo tỉnh được
thành lập; các giáo tỉnh nầy đã minh chứng và cổ vũ sự hiệp thông giữa các Giáo
hội địa phương và được lãnh đạo bởi một Thượng phụ Giáo chủ. Theo quan điểm của
công luận, bấy giờ đã có các công nghị giáo tỉnh, như những công cụ chuyên biệt
nhằm thực hiện tính hiệp hành của Hội Thánh. Khoản luật thứ 6 của Công đồng
Nicea (325) đã xác nhận tính ưu tiên và trỗi vượt của các toà Rôma, Alexandria
và Antiokia. Toà Constantinople đã được thêm vào danh sách các toà chính khi
diễn ra Công đồng Constantinople I (381): Riêng khoản luật 3 đã trao chức chủ
tịch danh dự cho vị Giám mục Rôma, Công đồng Chalcedon (451) đã xác nhận tước
hiệu nầy, khi toà Giêrusalem được thêm vào danh sách. Ở phương Đông, chế độ
“ngũ toà” này được coi là mô hình bảo đảm việc thực thi mối giây hiệp thông và
tính hiệp hành giữa năm Toà Thượng phụ này. Trong khi công nhận vai trò của các
Thượng phụ phương Đông, thì Hội Thánh phương Tây không coi
Giáo hội Rôma như là một trong các tòa thượng phụ khác, mà trao cho toà Rôma vị thế đặc biệt là trung
tâm của Giáo hội hoàn vũ.”[48].
2.3. Tính
hiệp hành được biểu lộ qua cơ cấu “Công đồng”:
“Vào cuối thế kỷ thứ ba và nổi tiếng ở phương
Đông, Tông Tắc 34 đã xác định rằng
bất kỳ quyết định nào vượt quá năng quyền của Giám mục địa phương phải được xử
lý bởi Công nghị: “Các Giám mục của mỗi quốc gia phải xác nhận một người trong
số họ là vị đứng đầu, và không làm gì đáng kể nếu không được vị nầy đồng ý… nhưng
vị đứng đầu cũng không được làm gì nếu không có sự đồng thuận của tất cả.”[49].
“Từ thế kỷ thứ ba trở đi, mặc dù các Công nghị
được thực hiện định kỳ ở cấp giáo phận và giáo tỉnh liên quan đến các vấn đề kỷ
luật, phụng tự và giáo lý tại địa phương, vẫn có một xác tín rằng các quyết
định được đưa ra là sự thể hiện sự hiệp thông các Giáo hội. Cảm quan mang tính
giáo hội này là một dấu chỉ cho thấy rằng mỗi Giáo hội địa phương là biểu hiện
một Hội Thánh Công giáo duy nhất; ….”[50].
“Về cách tiến hành thực hiện, các Công nghị
địa phương trong Thiên niên kỷ thứ nhất, một mặt, theo Truyền thống Tông đồ và,
mặt khác, theo các diễn trình thực tế, chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa của nơi tổ
chức. Trong trường hợp Công nghị diễn ra tại một Giáo hội địa phương, về nguyên
tắc, cả cộng đồng tham gia, mỗi nhóm theo vai trò tương ứng của mình. Trong các
Công nghị cấp tỉnh, những người tham gia là các Giám mục của các Giáo hội khác
nhau, mặc dù các giáo sĩ và tu sĩ có thể được mời đóng góp. Chỉ có các Giám mục
tham gia các Công đồng Chung được cử hành trong Thiên niên kỷ thứ nhất. Chủ yếu
chính các Công nghị Giáo phận và giáo tỉnh đã định hình thủ tục mang tính “thượng
hội đồng” được chấp nhận trong Thiên niên kỷ thứ nhất.”[51].
2.4. “Dáng
đứng hiệp hành” thời Trung cổ:
- Cách vận
dụng giữa Đông và Tây: “Kể từ đầu thiên
niên kỷ thứ hai, tiến trình Công nghị dần dần mang những hình thức khác nhau
giữa Đông phương và Tây phương, đặc biệt là sau biến cố phân ly giữa Giáo hội
Constantinople và Giáo hội Rôma (thế kỷ 11), và khi các lãnh địa giáo hội thuộc
các toà Thượng phụ Alexandria, Antiokia và Giêrusalem nằm dưới quyền kiểm soát
chính trị của Hồi giáo. Trong các Giáo hội Đông phương, thủ tục của Công nghị vẫn
theo truyền thống của các Giáo phụ, đặc biệt Công nghị cấp Toà Thượng phụ và
Tổng Giáo phận, nhưng cũng có các Công nghị đặc biệt, trong đó các Thượng phụ Giáo
chủ và Tổng Giám Mục tham gia. Ở Constantinople, sinh hoạt của một Công nghị
thường trực được củng cố mạnh mẽ; sinh hoạt nầy cũng đã từng được biết đến từ
thế kỷ thứ tư ở Alexandria và Antiokia, qua các công nghị thường trực để xem
xét các vấn đề phụng vụ, giáo luật và thực hành với các hình thức khác nhau
trong thời kỳ Byzantine và, sau năm 1454, trong thời kỳ Ottoman. Công nghị
thường trực còn tồn tại cho tới ngày hôm nay nơi các Giáo Hội Chính thống.”[52].
- Áp dụng
nguyên tắc hiệp hành giữa hai thẩm quyền:
Giáo Hoàng và Công Đồng: “Vào cuối
thời Trung cổ, một tình huống duy nhất đã xảy ra trong cuộc ly giáo ở Phương
Tây (1378-1417)[53],
vào thời điểm một lúc có hai, thậm chí sau đó tới ba vị xưng danh là Giáo
Hoàng. Công đồng Konstanz (Constance) (1414-1418) đã giải quyết vấn đề phức tạp
này bằng cách áp dụng giáo luật khẩn cấp dự kiến trong tư duy giáo luật thời
trung cổ, và tiếp tục bầu Giáo hoàng hợp pháp. Tuy nhiên, trong tình huống này,
ý tưởng “duy công đồng” (conciliarist) đã phát triển, đi tới chỗ đặt Công đồng
thường trực trên uy quyền nguyên thủy của Đức Giáo hoàng. Biện minh thần học và
ứng dụng thực tế của chủ nghĩa duy công đồng được đánh giá là không phù hợp với
Truyền thống. Tuy nhiên, nó để lại một bài học cho lịch sử Giáo hội: luôn có
nguy cơ ly giáo nằm chờ, một điều không thể xem thường, và việc thường xuyên
canh tân Giáo hội từ đầu cho tới chi thể (in capite et membris) sẽ không khả
thi nếu không sử dụng đúng tiến trình hiệp hành, một cơ chế gắn kết với Truyền
thống và truy nhận thẩm quyền tối thượng của Giáo hoàng như một bảo đảm cần
thiết.”[54].
2.5. Hiệp
hành trong thời cận đại và hiện đại:
- Công
đồng Trentô và các cơ cấu chuẩn về các loại hình Công đồng, Công nghị: “Một thế kỷ sau, để đáp ứng với cuộc khủng
hoảng Cải cách Tin lành, Giáo hội Công giáo đã triệu tập Công Đồng Trentô. Đó
là Công đồng đầu tiên trong thời hiện đại với những đặc điểm nhất định: nó
không còn là Công đồng Kitô giáo như thời Trung cổ; những người tham gia là các
Giám mục cũng như Bề trên các Dòng tu và các Đan viện, trong khi các khâm sứ
của các ông hoàng được tham dự nhưng không có quyền bỏ phiếu. Công đồng đã
thiết lập một cơ cấu chuẩn là các Công nghị giáo phận nên diễn ra hàng năm, các
Công nghị giáo tỉnh cứ ba năm một lần, như một cách truyền lại động lực canh
tân của Công đồng Trento cho toàn Giáo hội. Một ví dụ điển hình là những gì
Thánh Charles Bôrômêo đã thực hiện với tư cách là Tổng Giám mục của Milan.
Trong chức vụ lâu dài của mình, ngài đã triệu tập năm Công nghị Giáo tỉnh và
mười một công nghị giáo phận. Ở Mỹ, thánh Turibius của Mogrovejo đã thực hiện
một điều tương tự: ông đã triệu tập ba Công nghị giáo tỉnh và mười ba giáo
phận. Cũng có ba công nghị giáo tỉnh ở Mexico trong cùng thế kỷ. Để phù hợp với
văn hóa của thời đại, các công nghị giáo phận và giáo tỉnh được cử hành theo mô
hình Công đồng Trento, không nhằm đến sự tham gia tích cực của toàn thể Dân
Chúa – đoàn thể giáo dân (Congregatio fidelium) - nhưng để thông qua, ban hành
các quy tắc và quyết định của Công đồng…”[55].
- Chiều
kích “hiệp hành” và sự đóng góp của các Giáo Hội Cải cách: “Các cộng đồng giáo hội được sinh ra từ cuộc Cải cách Tin lành thúc đẩy
một cách tiếp cận nhất định mang tính hiệp hành, dựa trên giáo thuyết và thực
hành mang chiều kích giáo hội, bí tích và truyền giáo theo Truyền thống Công
giáo…”[56].
- Công
đồng Vatican II và “định hướng mục vụ mang tính hiệp hành”: “Công đồng Vatican II tiếp tục đường hướng
của Vatican I và biến nó thành một phần của chương trình “cập nhật hoá”
(aggiornamento), thu luợm những lợi ích của những năm bản lề rồi tổng hợp lại
cách phong phú dưới ánh sáng của Truyền thống….”[57].
- Hiện
thực hoá tinh thần hiệp hành của Vatican II với định chế “Thượng Hội đồng Giám
Mục”: “Về phương diện tái thực thi “chiều
kích hiệp hành” trên tầm mức Giáo hội hoàn vũ, Chân phước Phaolô VI đã thiết
lập Thượng hội đồng Giám mục. Đó là một “Công nghị Giám mục thường trực cho
Giáo hội hoàn vũ”, trực tiếp và tức thời chịu quyền lực của Đức Giáo hoàng, “cung
cấp thông tin và đề xuất ý kiến tư vấn”, “cũng có thể được quyền quyết định khi
được Đức Giáo Hoàng uỷ quyền”[58].
IV. HIỆP
HÀNH VÀ CÁC “ĐIỂM NHẤN THẦN HỌC”
1. Hiệp hành
và các “nền tảng thần học”:
1.1. Hiệp
hành trên nền tảng “mầu nhiệm Ba Ngôi”:
“Giáo hội là Đoàn dân hiệp nhất từ Chúa Ba
Ngôi (de Trinitate plebs adunata), được gọi và đủ tư cách là Dân Chúa để ra đi thực
hiện sứ mệnh của mình “đến với Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần”.
Cũng vậy, trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo hội chia sẻ đời sống
hiệp thông Ba Ngôi, một đời sống muốn ôm lấy toàn thể nhân loại. Trong ân huệ
và sự cam kết hiệp thông, có thể được tìm thấy cội nguồn, mô thức và phạm vi
của tính hiệp hành, vì nó thể hiện phương thức sống và hoạt động (modus vivendi
et operandi) loại biệt của Dân Chúa trong sự tham gia có trách nhiệm và trật tự
của tất cả các thành viên vào việc phân định và thực hành để hoàn thành sứ vụ
của mình. Thực hiện tính hiệp hành sẽ giúp con người thực sự sống hiệp thông, điều
này xuất phát từ sự tự hiến chân thành, kết hiệp với Thiên Chúa và hiệp nhất
với anh chị em trong Chúa Kitô.”[59].
1.2. Hiệp
hành trên nền tảng “Nhiệm cục cứu độ” (trong Đức Kitô cùng với Chúa Thánh Thần):
“Để thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu
phục sinh đã ban tặng ân huệ Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,22). Vào
ngày Lễ Ngũ Tuần, Thần Khí Chúa đã tuôn đổ trên mọi người, bất kể đến từ đâu,
để nghe và đón nhận Tin Mừng (kérygma), tiên báo việc tập họp tất cả các dân
tộc trong một Dân Chúa (Cv 2,11). Trong sâu thẳm trái tim của họ, Chúa Thánh
Thần đã làm phát sinh và định hình sự hiệp thông và sứ mạng của Giáo hội, Thân
thể Chúa Kitô và Đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần (Ga 2,21; 1 Cr 2.1-11)[60]…
1.3. Hiệp
hành trên nền tảng của “mầu nhiệm Giáo Hội”:
“Giáo Hội Duy Nhất vì nguồn cội, mẫu mực và
mục tiêu của Hội Thánh chính là sự hiệp nhất của Ba Ngôi chí thánh (Ga
17,21-22). Hội Thánh là Dân Chúa lữ hành trên trái đất để hòa giải mọi người
trong sự hiệp nhất của Thân mình Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần (1 Cr 12,4).
Giáo hội Thánh thiện bởi vì Giáo Hội chính là hoạt động của Ba Ngôi chí thánh
(2 Cr 13,13): Giáo Hội nên thánh nhờ ân sủng của Chúa Kitô, Đấng đã hiến mình
mình cho Giáo Hội như hôn phu hiến mình cho hôn thê (Ep 5, 23), và được sống
nhờ tình yêu của Chúa Cha đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần (Rm 5,5).
Mầu nhiệm “Các Thánh hiệp thông” trở thành hiện thực trong cả hai chiều kích:
hiệp thông với sự thánh thiện (Sancta) và hiệp thông với các thánh (Sancti).
Theo cách này, Dân thánh của Thiên Chúa đang hành trình hướng đến sự hoàn thiện
- ơn gọi của mọi tín hữu – nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ, các Thánh Tử đạo và
các Thánh, Hội Thánh đã được xây dựng và sai đi như là bí tích của hiệp nhất và
cứu rỗi.
Giáo hội Công giáo vì Giáo Hội bảo tồn sự toàn vẹn và toàn bộ đức tin (Mt
16,16) và Giáo Hội đã được sai đi để quy tụ các dân tộc trên trái đất thành một
Dân thánh. (Mt 28,19). Giáo Hội Tông Truyền vì Giáo Hội đã được xây dựng trên
nền tảng các Tông đồ (Ep 2,20), tuyên xưng đức tin của các ngài, được dạy dỗ,
thánh hóa và cai quản bởi những người kế vị các ngài”. (Cv 20,19)[61].
1.4. Hiệp
hành trên nền tảng “mầu nhiệm Thánh Thể”:
“Con đường hiệp hành của Giáo hội được hình
thành và nuôi dưỡng bởi Bí tích Thánh Thể. Đó là "trung tâm của toàn bộ
đời sống Kitô hữu cho Giáo hội phổ quát và địa phương, cũng như cho mỗi tín hữu
riêng lẻ. Cội nguồn và chóp đỉnh của hiệp hành chính là việc cử hành phụng vụ -
nhất là khi tham dự cử hành Thánh Thể cách duy nhất, trọn vẹn, ý thức và sinh
động. Vì sự thông hiệp của chúng ta với Mình và Máu Chúa Kitô, “nên tuy nhiều
người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì tất cả chúng ta đều chia sẻ cùng
một tấm bánh” (1 Cr 10,17)[62]…
2. Hiệp
hành trong chiều kích “lữ hành-thừa sai”:
2.1. Đức
Kitô là “con đường” để Dân Chúa hiệp hành:
“Chiều kích hiệp hành thể hiện tính cách 'hành
hương' của Giáo hội. Hình ảnh của Dân Chúa, được tập hợp từ giữa các quốc gia
(Cv 2,1-9; 15,14), thể hiện tính cách xã hội, lịch sử và truyền giáo của Giáo
Hội, tương ứng với điều kiện và ơn gọi của mỗi người là một khách lữ hành (homo
viator). Con đường là hình ảnh làm sáng tỏ mầu nhiệm Chúa Kitô là Con đường dẫn
đến Chúa Cha. Chúa Giêsu là con đường từ Thiên Chúa đến con người và từ con
người đến Thiên Chúa. Để ân sủng tuôn tràn, Ngài tự biến mình thành một người
hành hương bằng cách cắm lều cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14); sự kiện đó đang
diễn ra trên nẻo đường hiệp hành của Giáo hội.”[63].
2.2. Giáo
Hội hiệp hành trong cuộc lữ hành với Đức Kitô:
“Giáo hội đang lữ hành với Chúa Kitô, qua Chúa
Kitô và trong Chúa Kitô. Ngài, người dẫn đường, Con đường và quê hương của
chúng ta, ban cho chúng ta Thánh Thần tình yêu của Ngài (Rm 5,5) để trong Ngài,
chúng ta bước đi trên "con đường hoàn hảo nhất" (1 Cr 12,31). Giáo
hội được mời gọi tiếp nối bước chân của Chúa cho đến khi Ngài trở lại (1 Cr
11,26). Giáo Hội là Dân lữ hành (Cv 9,2; 18,25; 19,9) hướng về Nước trời (Pl
3,20). Hiệp hành là mô thức lịch sử của cuộc hành trình hiệp thông hướng tới sự
sau cùng (Hr 3,6;4,14). Đức tin, Đức Cậy và Đức Mến hướng dẫn và thông báo cho
cuộc hành hương về sự tập hợp của Chúa "trong viễn cảnh của đô thành tương
lai" (Hr 11,10). Kitô hữu là "lữ hành và khách lạ" trên thế giới
(1 Pr 2,11), được vinh dự với ân huệ và trách nhiệm loan báo Tin Mừng của Nước
Trời cho mọi người.”[64].
3. Hiệp
hành với một Giáo Hội hiệp thông mang hình “Kim tự tháp ngược”:
3.1. Hiệp
hành khi tất cả đều là “chủ thể”:
“Hiệp hành có nghĩa là toàn thể Giáo hội là
một chủ thể và mọi người trong Giáo hội cũng là một chủ thể. Các tín hữu là
những người đồng hành, cùng tiến bước trên đường. Họ được kêu gọi đóng vai trò
tích cực khi cùng chia sẻ chức vụ tư tế của Chúa Kitô, điều đó cũng có nghĩa họ
được Chúa Thánh Thần ban các đặc sủng khác nhau tuỳ theo thiện ích chung. Đời
sống mang tính hiệp hành cho thấy một Giáo hội bao gồm các chủ thể tự do và
khác nhau, liên kết trong mối giây hiệp thông, được thể hiện như một chủ thể
hợp đoàn linh động được xây dựng trên Chúa Kitô, hòn đá góc và trên các Tông
đồ, những trụ cột, như những viên đá sống làm nên "ngôi nhà thiêng
liêng" (1 Pr 2,5), "nơi Thiên Chúa ngự trong Chúa Thánh Thần"
(Ê-phê-sô 2,22)[65].
3.2. Hiệp
hành khi Giáo Hội mang hình “Kim tự tháp ngược”:
“Mang quan điểm giáo hội của Vatican II, Đức
Giáo hoàng Phanxicô đã phác họa hình ảnh của một Giáo hội hiệp hành là “một kim
tự tháp ngược” bao gồm Dân Chúa và Thượng Hội Đồng Giám mục; Người kế vị Thánh
Phêrô cũng là một thành viên trong số đó, có sứ mệnh kiến tạo sự hiệp nhất cách
đặc biệt. Ở đây, chóp đỉnh trở thành bệ đáy…. Tính Hiệp Hành, với tư cách là
một yếu tố cấu thành của Giáo hội, mang đến cho chúng ta khuôn khổ diễn giải
phù hợp nhất để hiểu chính thừa tác vụ phẩm trật. Chúa Giêsu đã thành lập Giáo
hội bằng cách đặt cộng đoàn Tông đồ làm đầu, trong đó Tông đồ Phêrô là 'tảng
đá' (Mt 16,18), người có trách nhiệm kiên vững đức tin cho anh em (Lc 22,32).
Nhưng trong Giáo Hội này, như trong một kim tự tháp ngược, đỉnh nằm dưới chân
đế, những người thực thi quyền lực lại được gọi là “người phục vụ”, bởi vì,
theo nghĩa gốc của từ này, họ là người nhỏ nhất “[66].
4. Một kết
hợp hài hoà trên nền tảng “cảm thức đức tin” của Dân Chúa:
4.1. Hiệp
hành khi kết hợp hài hoà 3 nhân tố: “mọi người”, “một số người” và “một người”:
“Có thể đào sâu chiều kích thần học của tính
hiệp hành trên nền tảng học thuyết về “cảm thức đức tin” (sensus fidei) của Dân
Chúa và tính bí tích của Giám Mục đoàn trong mối giây hiệp thông phẩm trật với
Giám Mục Rôma. Nhãn quan Hội Thánh này mời gọi chúng ta thể hiện sự hiệp thông
mang tính hiệp hành giữa “mọi người”, “một số người” và “một người”. Giữa mọi người là khi ám chỉ việc thực
thi cảm thức đức tin của toàn thể tín hữu nơi các Hội Thánh địa
phương với các cấp độ và mô hình khác nhau, hoặc các miền của Hội thánh địa
phương với Hội Thánh hoàn vũ; giữa “một
số người” khi nhắm đến thừa tác vụ hướng dẫn của Giám Mục Đoàn, hoặc của
mỗi vị với linh mục đoàn; và “một người”
khi nhắm đến tác vụ hiệp nhất của Giám Mục Rôma. Do đó, tính hiệp hành sẽ cho
thấy sự năng động của chiều kích hiệp thông của toàn thể Dân Chúa, của Giám mục
đoàn khi thi hành tác vụ Giám Mục và của tác vụ tối cao của Giám Mục Rôma. Mối
tương quan này thăng tiến sự hiệp nhất giữa tín hữu và Mục Tử, hình ảnh
của hiệp nhất vĩnh cửu trong Chúa Ba Ngôi”. Vì thế “Giáo Hội luôn
hướng tới sự viên mãn của chân lý thần linh, cho đến khi các lời của Thiên Chúa
được hoàn tất nơi chính Giáo Hội”[67].
Có một vấn
đề thời sự khá “nóng” của Giáo Hội hoàn vũ liên quan đến nguyên tắc hiệp hành
cơ bản, đó là Hội Đồng Giám Mục Đức đang chuẩn bị một “tiến trình công nghị với
hiệu lực ràng buộc” bất chấp “ý kiến chỉ đạo” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Đây
là công nghị, theo Hội Đồng Giám Mục Đức, nhằm giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy
sinh từ khủng hoảng lạm dụng tình dục nơi hàng giáo sĩ như: luật độc thân linh
mục, vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ, giáo lý về đạo đức tình dục, các
kết hiệp đồng tính, và chủ nghĩa giáo sĩ trị[68].
Chúng ta cầu nguyện cho sự kiện đặc biệt nầy.
4.2. Hiệp
hành khi thể hiện vai trò “tham gia”:
“Một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội tham
gia và đồng trách nhiệm. Trong khi thực hiện chiều kích hiệp hành, Giáo Hội mời
gọi tất cả mọi người cùng tham gia, theo ơn gọi riêng của mỗi người, cùng với
thẩm quyền được Đức Kitô trao cho Giám mục đoàn có Giáo hoàng đứng đầu. Sự tham
gia hệ tại việc tất cả các tín hữu đều có đủ điều kiện và được kêu gọi phục vụ
lẫn nhau nhờ những ân huệ của Chúa Thánh Thần. Thẩm quyền của các vị Mục tử là
một món quà cụ thể của Thần Linh Đức Kitô, với tư cách là Đầu để xây dựng toàn
bộ Cơ thể, chứ không phải là một chức năng được ủy thác và mang tính đại
diện...”[69].
KẾT LUẬN: “Chúng
tôi cùng đi với anh” (Ga 21,3):
Đã nói tới
“hiệp hành” thì không thể nói ngắn và đứt đoạn, vì “đi chung” và “chỉ trên một
con đường” cho tới đích, chắc chắn phải “dài đường”.
Quả thật
câu chuyện “hiệp hành” là “câu chuyện dài” của lịch sử “lữ hành” của Giáo Hội
muôn nơi muôn thuở, ít ra, là câu chuyện đã diễn ra như một “xuất phát điểm”
sau ngày Chúa Phục Sinh tại bờ biển Ti-bê-ri-a của hai ngàn năm trước: Ông Si-mon Phê-rô nói với các ông: “Tôi đi
đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi,
lên thuyền…” (Ga 21,3).
Trên “con
thuyền của Thánh Phêrô” hôm nay, mọi người chúng ta, không trừ ai, đều được gọi
mời “cùng đi với nhau và với Thánh Phêrô”.
Dĩ nhiên, đó mới chỉ là công việc khởi đầu, nhưng là bước căn bản, để “tấm lưới
Nước Trời” được buông trên biển đời dương thế; nếu không có sự “hiệp hành” nầy,
thì “người khách lạ đứng trên bờ” có đợi chờ thâu đêm suốt sáng cũng chẳng có
“cơ hội” để thể hiện quyền năng “cứ thả
lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, sẽ bắt được cá” (Ga 21,6).
Vì thế cho
nên, như câu ngạn ngữ từ ngàn xưa của các dân tộc Phi Châu mà Đức Phanxicô đã lấy
lại để ân cần nhắc nhở các bạn trẻ trong tông huấn Christus Vivit: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu
bạn muốn đi xa, hãy đi với những người khác”[70],
công cuộc tông đồ của cho người trẻ hôm nay nói riêng, hay cuộc sống và sứ vụ
của Hội Thánh nói chung, phải mang tính “hiệp hành”. Bởi vì, đúng như cách định
nghĩa của Thánh Giáo phụ Gioan Kim Khẩu: “Hiệp
hành (Sunodos) chính là danh hiệu đặc trưng của hội thánh”[71].
Lm. Giuse Trương Đình Hiền (30.9.2021)
Thế vận hội
đặc biệt Hoa Kỳ (The Special
Olympics USA Games): Thế vận hội đặc biệt Hoa Kỳ là một sự kiện Thế vận
hội đặc biệt quốc gia được tổ chức bốn năm một lần tại Hoa Kỳ. Đây là một tổ
chức thể thao dành cho trẻ em và người lớn bị thiểu năng trí tuệ ở Hoa Kỳ. Nó
là một phần của phong trào Thế vận hội đặc biệt toàn cầu. Thế vận hội đặc biệt
được thành lập vào năm 1968 với mục tiêu chính là chấp nhận và chào đón các cá
nhân như chính hiện hữu của tiêng mình. Thế vận
hội đặc biệt còn cung cấp chương trình đào tạo thường niên các môn thể
thao Olympic và có trụ sở tại 170 quốc gia. Thế vận hội
Hoa Kỳ đặc biệt 2018 được tổ chức tại Seattle, Washington từ ngày 1-6 / 7
/ 2018. Hơn 4.000 vận động viên và huấn luyện viên đại diện cho 50 tiểu bang và
Quận Columbia, cùng với sự hỗ trợ của hàng chục ngàn tình nguyện viên và khán
giả, sẽ thi đấu trong 14 môn đồng đội và các môn thể thao cá nhân. Tất cả các sự kiện thể
thao đều miễn phí và mở cửa cho công chúng.
PAPE FRANÇOIS,
Commémoration du 50e anniversaire de
l'institution du synode des évêques: “La
synodalité, comme dimension constitutive de l’Église, nous offre le cadre
d’interprétation le plus adapté pour comprendre le ministère hiérarchique
lui-même. Si nous comprenons que, comme dit Saint Jean Chrysostome, “Église et
Synode sont synonymes” – parce que l’Église n’est autre que le “marcher
ensemble» du troupeau de Dieu sur les sentiers de l’histoire à la rencontre du
Christ Seigneur – nous comprenons aussi qu’en son sein personne ne peut être
«élevé» au-dessus des autres. Au contraire, il est nécessaire dans l’Église que
chacun s’«abaisse» pour se mettre au service des frères tout au long du chemin.”,
website
http://w2.vatican.va/content/francesco/fr/speeches/2015/october/documents/papa-francesco_20151017_50-anniversario-sinodo.html
UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Tính Đồng Nghị…, sđd, ghi
chú sơ khởi.
Sđd, số 36:
“Trong cơ cấu vận hành mang tính “hiệp hành” của cộng đồng giáo hội,
các tín hữu, nhờ chức tư tế cộng đồng của bí tích rửa tội, được tham gia nhiều hơn; và cơ cấu nầy được coi là cấu trúc
phù hợp nhất với đời sống của cộng đồng Kitô giáo theo Lutheran. Tất cả các tín
hữu không
những được mời gọi tham gia vào cuộc tuyển chọn các thừa tác viên mà còn có trách nhiệm củng cố sự trung thành với giáo lý Tin Mừng và trật tự
Hội thánh… Các cộng đồng giáo
hội cải cách theo học thuyết “4 tác vụ” của Jean Calvin (Mục sư, giảng viên, linh mục và phó tế), theo
đó, linh mục chỉ là đại diện cho phẩm
giá và uy quyền được trao cho mọi tín hữu nhờ phép Rửa tội. Do đó, các linh mục, cùng với các Mục
sư, chịu trách nhiệm về cộng đoàn địa phương, và trong tiến trình công nghị, luôn dự kiến sự có mặt của hội đồng giảng viên và các thừa tác viên khác, với một đại đa số tín hữu trung kiên.
Sđd, số 40:
Hiến chế tín lý Lumen Gentium đưa ra một tầm nhìn
về bản chất và sứ mệnh của Giáo hội chính là sự hiệp thông,
với các tiền đề thần học làm sống lại chiều kích hiệp hành: Giáo hội trong cái nhìn thần bí và bí tích; bản chất của Giáo Hội là Dân Chúa lữ hành qua lịch sử tiến về quê trời, đó là đoàn dân bao gồm tất cả các thành
viên nhờ phép Rửa tội, có chung phẩm giá con Chúa và được sai đi cùng một sứ vụ; học thuyết mang chiều kích bí tích về chức giám mục và Giám mục đoàn trong sự hiệp
thông phẩm trật với Giám mục Rôma.
Sđd, số 41:
“Cơ
cấu Thượng Hội Đồng nhằm mục đích để Dân Chúa tiếp tục hưởng những lợi ích từ mối hiệp thông mà Công đồng mang lại.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhân dịp Năm
Thánh 2000, đã đưa ra một đánh giá về con đường Hội Thánh trải qua – vừa thích nghi với giáo huấn của
Vatican II – vừa
trung thành với căn tính cốt lõi của mầu nhiệm Hội Thánh với nhiều cấu trúc của
sự hiệp thông. Trong
số nhiều vấn đề - ngài nhấn mạnh -
"nhưng chắc chắn còn nhiều việc phải làm, để nhận ra tất cả tiềm năng của
những công cụ hiệp thông này (và) để đáp ứng kịp thời và hiệu quả những vấn đề
mà Giáo hội phải đối mặt khi thời gian thay đổi
nhanh chóng ".