I. HỌC
LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc 6,1-6
(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có
các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội
đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như
thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những
phép lạ như thế nghĩa là gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a,
và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông
không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. (4)
Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương
mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. (5)
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài
bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin.
2. Ý CHÍNH : Sau một thời gian đi khắp nơi rao
giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về thăm quê hương là làng Na-da-rét.
Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán phục trước các phép lạ
Người làm ở khắp nơi. Nhưng họ lại đặt nghi vấn về gia thế của Người nên không
tin Người là Đấng Thiên Sai. Chính óc thành kiến khiến dân làng Na-da-rét đã tự
loại mình ra khỏi ơn cứu độ của Chúa.
3. CHÚ THÍCH :
-C 1-2 : + Đến nơi quê quán của Người, có các môn
đệ đi theo : Đức Giê-su trở về
quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy nổi danh, như
ông Na-tha-na-en đã nhận xét : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?” (x.
Ga 1,46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi hành sứ
mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa. + Đến ngày Sa-bát, Người bắt
đầu giảng dạy trong hội đường : Tại các hội đường Do Thái, dân làng có
thói quen tập trung vào ngày Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích Kinh
Thánh. Trong các buổi cầu nguyện này, người ta cũng thường hay mời các kinh sư
hay các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su đã nổi tiếng khắp nơi nên cũng
được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc nhiên về giáo lý của Người, nhất là khi
nghe biết các phép lạ Người đã từng làm tại thành Ca-phác-na-um gần đó.
-C 3 : + Là bác thợ :
Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su
đã học nơi cha nuôi là Giô-xép. + Con bà Ma-ri-a : Họ không nhắc
đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà chỉ nhắc đến bà
Ma-ri-a là một phụ nữ bình thường. + Anh em của các ông Gia-cô-bê,
Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với
chúng ta sao ? : Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức
Giê-su không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ
nhận đức đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a, vì theo họ: ngoài Đức Giê-su ra,
bà còn sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ
là anh chị em bà con mà thôi (x. St 13,8; 14,16). Chẳng hạn: Gia-cô-bê và
Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa
là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo luôn
khẳng định: Đức Giê-su là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng vì
thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn đệ
Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đã đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối
cùng, nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã phải nói
là “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ chung
chung “anh em ông” và “chị em ông”. + Và họ vấp ngã vì Người :
Theo Thánh Phao-lô và thánh Phê-rô thì: Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng
tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9,33; 1 Pr 2,7-8). Tin
Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đã trở nên “viên đá
góc”. Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm
người ấy nát thịt” (Lc 20,18).
-C 4-6 : + “Ngôn sứ có bị rẻ rúng…” :
Câu này tương tự như câu : “Bụt nhà không thiêng !”. Dân làng Na-da-rét đã vấp
ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như : Làm nghề thợ mộc là nghề
tay chân hèn kém. Các thân nhân của Người cũng chỉ là người bình dân… Đó là các
chướng ngại khiến dân làng Na-da-rét không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. +
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó : Trước khi làm một
phép lạ nào, Đức Giê-su luôn đòi người ta phải có đức tin. Chẳng hạn: Người bảo
bệnh nhân: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34); Người nói với
ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù ở
Giê-ri-cô: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” (Mc 10,52). Tại làng
Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã không được Đức Giê-su ban ơn là đã
không làm các phép lạ như ở những nơi khác.
4.CÂU HỎI : 1) Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm
mục đích gì ? 2) Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm gì
? 3) Dân làng Na-da-rét đánh giá thế nào về Đức Giê-su sau khi nghe Người giảng
dạy ? 4) Dân làng có thành kiến thế nào về nghề thợ mộc và về các thân nhân tầm
thường của Đức Giê-su ? 5) Phải chăng Đức Ma-ri-a đã không trọn đời đồng trinh,
vì ngòai Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể ra tên nhiều anh em và chị em khác
của Người ? 6) Dân làng Na-da-rét đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là
Đấng Thiên Sai ? 7) Tại sao Đức Giê-su không làm nhiều phép lạ tại Na-da-rét
quê hương Người ?
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ nói: “Nào ông ta không phải là bác thợ, con
bà Ma-ri-a sao ?” (Mc 6,3).
2. CÂU CHUYỆN :
1) CẦN LOẠI BỎ ÓC THÀNH KIẾN VỀ
NGƯỜI KHÁC:
Vào
năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, giới truyền thông báo chí đã
mô tả cái chết của ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất
thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ được một nền văn học uyên thâm và đã để
lại nhiều công trình lớn lao cho Hội Thánh.
Cơ
Mật Viện đã bầu Tân Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII lên kế vị. Vị Giáo Hoàng này xuất
thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng bên ngoài mập mạp, quê mùa,
chất phát. Người ta bảo nhau: Đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị
Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm
tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy lại có sức thu hút mọi người. Nhất là
ngài đã có công triệu tập Cộng đồng Vatican II và ngài đã trở thành một “siêu
sao” thời đại, trổi vượt hơn các vị giáo hoàng tiền nhiệm.
Câu
chuyên trên cho thấy: Chúng ta đừng đánh giá tha nhân theo thành kiến, như
Na-tha-na-en đã nói với Phi-líp-phê khi được bạn giới thiệu về Đức Giê-su
Na-da-rét: “Từ Na-da-rét làm sao có cái gì hay được ?”(Ga 1,46). Thế mà Đức
Giê-su làng Na-da-rét ấy lại chính là Đấng Thiên Sai muôn dân trông đợi.
2) BỤT NHÀ KHÔNG
THIÊNG:
TA-GO-RE (1861-1941), một đại thi hào
của Ấn Độ, đã đoạt giải No-bel về văn chương năm 1913 Ông có tài làm thơ ngay
từ thuở niên thiếu. Khi ấy thỉnh thoảng Ta-go-re đã làm được một bài thơ và gửi
về tòa soạn một tờ báo do thân phụ ông phụ trách biên tập. Khi thấy bài thơ gửi
đến có ký tên tác giả là con của mình, ông bố chẳng thèm đọc một dòng mà quẳng
ngay vào sọt rác, vì ông cho rằng con ông chỉ là một đứa trẻ thì biết gì về thi
ca !
Khi hiểu rõ lý do tại sao bài mình gửi
lại không được đăng lên báo, Ta-go-re liền chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi
về tòa soạn trước đó, nhưng lần này cậu đã lấy một bút hiệu khác rồi gửi trở
lại toà soạn. Lần nầy, thân phụ của Ta-go-re đọc và nhận thấy đây là những bài
thơ rất có giá trị, nên ông đã cho đăng ngay lên báo mà không biết đó là những
bài thơ của cậu con trai mà trước đó ông đã nhiều lần quẳng vào sọt rác.
Đúng như người ta thường nói :
"Bụt nhà không thiêng", hay như lời Chúa Giê-su : "Ngôn sứ có bị
rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân
thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
3) TAI HẠI CỦA ÓC THÀNH KIẾN:
Có một gánh xiếc đi lưu diễn tới vùng
quê và đóng trại tại một khu rừng gần một ngôi làng. Vào một buổi tối trước giờ
gánh xiếc trình diễn, bỗng một ngọn lửa bùng lên tại một chiếc lều chứa trang
cụ của gánh xiếc. Ông giám đốc vừa chỉ huy việc dập lửa vừa sai một anh hề, lúc
đó mới hóa trang chuẩn bị cho buổi trình diễn, đi vào làng gần bên để yêu cầu
được giúp đỡ dập lửa. Vì nếu ngọn lửa cháy lan qua khu rừng thì ngôi làng cũng
có nguy cơ bị hỏa hoạn.
Anh hề vội vã chạy nhanh vào làng. Anh
đánh kẻng báo động yêu cầu dân làng mau đến rạp xiếc giúp dập lửa. Nhưng dân
làng lại nghĩ đó là một cách quảng cáo lôi kéo người đến xem xiếc. Anh càng cố
nói cho dân làng biết thực sự có
hỏa hoạn, thì họ lại càng cười và cho là anh khéo diễn trò. Sau cùng lửa đã
cháy lan nhanh đến ngôi làng và thiêu rụi tất cả.
Lý do chính mà dân làng không tin lời
cảnh báo là do họ nghĩ người đưa tin chỉ là một anh hề có nhiêm vụ chọc cười
của gánh xiếc, khiến họ không cần biết điều anh hề muốn nói với họ. Cũng có một sự tương đồng giữa câu chuyện nói trên với
câu chuyện Đức Giê-su về thăm làng quê Na-da-rét trong Tin Mừng
hôm nay. Dân làng tuy thán phục lời giảng của
Đức Giê-su, nhưng lại không tin Người là Đấng Thiên Sai, vì tưởng họ
đã biết rõ về gia thế tầm
thường của Người.
4) BỎ LỠ LỢI ÍCH LỚN LAO DO LỐI ỨNG XỬ THÀNH KIẾN:
Có một đôi vợ chồng cao
niên dáng vẻ quê mùa: bà vợ mặc một chiếc áo bông đã ngả màu, còn chồng thì mặc
một bộ vét rẻ tiền. Họ không hẹn trước nhưng bất ngờ đến trường Đại học
Harvard, là một trong những trường đại học có thế giá và nổi tiếng nhất nước Mỹ
để xin được gặp ngài hiệu trưởng.
Cô thư ký của hiệu
trưởng nhận thấy 2 người này có dáng nghèo nàn chắc chẳng có gì quan trọng để
nói với ngài hiệu trưởng, nên đã tiếp họ với thái độ coi thường.
Người chồng khẽ nói:
- Tôi muốn gặp ngài
hiệu trưởng.
Cô thư ký lễ phép đáp
lại:
- Xin thứ lỗi, ngài
hiệu trưởng bận rộn suốt cả ngày.
Người vợ nói:
- Không sao, chúng tôi
có thể chờ đợi.
Trong suốt mấy tiếng
đồng hồ ngồi chờ ở phòng khách, cô thư ký không thèm để ý đến họ. Cô muốn để họ
chờ lâu rồi sẽ chán nản bỏ ra về. Nhưng họ vẫn cứ ngồi lỳ chờ đợi.
Cuối cùng, cô thư ký
đành gọi máy báo cho ngài hiệu trưởng:
- Có lẽ họ chỉ muốn nói
một vài câu với ngài rồi đi ngay.
Ngài hiệu trưởng bất
đắc dĩ đồng ý ra tiếp.
Người vợ nói:
- Chúng tôi có một đứa
con trai từng học ở Harvard được một năm. Nó rất thích Harvard. Nó sống ở
Harvard rất vui vẻ. Nhưng năm ngoái, nó đột ngột qua đời. Chồng tôi và tôi muốn
xây một vật tưởng niệm con trai tôi trong khuôn viên của nhà trường.
Ngài hiệu trưởng chẳng
hề xúc động. Ông chỉ cảm thấy buồn cười, ông nói nhát gừng:
- Thưa bà, chúng tôi
không thể nào dựng một tấm bia cho những người trước kia học ở Harvard mà giờ
đây đã qua đời. Nếu chúng tôi làm như thế, thì ngôi trường của chúng tôi chắc
sẽ sớm trở thành một nghĩa trang mất.
Người vợ nói:
- Không phải thế, chúng
tôi không lập một tấm bia đâu, mà chúng tôi muốn xây cho Harvard một tòa
nhà.
Ngài hiệu trưởng nhìn
kỹ vào chiếc áo bông đã ngả màu của người phụ nữ và bộ áo vét rẻ tiền của chồng
bà ta, rồi ông xẵng giọng:
- Ông bà có biết rằng
xây một tòa nhà tốn bao nhiêu tiền không? Mỗi tòa nhà trong trường đại học của
chúng tôi đều trị giá trên 7.5 triệu đôla.
Lúc này, người phụ nữ
im lặng không nói gì. Ngài hiệu trưởng rất vui mừng, ông nghĩ chắc họ sẽ chán
nản và tự động rút lui. Một lát sau, người phụ nữ quay sang nói với chồng:
- Chỉ cần 7.5 triệu
đôla mà có thể xây được một giảng đường lớn sao? Thế thì tại sao chúng ta lại
không xây một trường đại học để làm vật kỷ niệm cho con trai chúng ta nhỉ?
Và như thế, hai vợ
chồng ông bà Stanford đã rời Harvard, đến California, thành lập trường đại học
Stanford.
Thế là Harvard đã mất
đi một cơ hội có được 7.5 triệu USD. Thật là một mất mát không đáng xảy ra chỉ
vì thành kiến và đánh giá sai lầm của một người có chức có quyền.
5) KIÊN TRÌ VƯỢT QUA THÀNH KIẾN NHỜ LỐI SỐNG YÊU THƯƠNG:
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo
Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng bên Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da
đen tên là TA-BAN đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong
thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ
phong linh mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết
định trở lại quê nhà để thi hành sứ vụ linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ
nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài
nghi về chức linh mục của cha như lời cha thuật lại: “Dân chúng ngờ vực nhìn
tôi và nói: “Này anh bạn da đen kia! Anh nói cái gì vậy? Anh mà là Linh mục ư?
Thật là khó tin!”.
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao
giờ xuất hiện một linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các linh mục
thừa sai người da trắng đến chăm sóc và đã chia sẻ cho họ nhiều thực phẩm, quần
áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống
như họ, nên ngài không có gì phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình
lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ thánh lễ theo
đường hướng công đồng Va-ti-can II. Giáo dân xầm xì với nhau: “Ông linh mục da
đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng la tinh. Chắc
ông ta không rành tiếng la tinh nên mới làm như vậy! Không biết ông ta là linh
mục thật hay giả?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả phục vụ giáo xứ, chịu
đựng bao nhiêu sự miệt thị và những lời dè bỉu khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban
mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
3. THẢO LUẬN : Trong cuộc sống, các tín
hữu chúng ta cần ứng xử thế nào trước thái độ khinh thường hay những lời khích
bác của những kẻ ác cảm với đạo Công giáo?
4. SUY NIỆM :
1)"Ông ta không phải là bác thợ
sao?":
Đức Giê-su chỉ là bác thợ mộc trong
làng, sống bằng đôi tay lao động vất vả giống như bao người khác. Rồi bà
Ma-ri-a mẹ Người và các anh chị em của Người cũng là những láng giềng thân quen
của dân làng. Những điều này đã khiến dân làng vấp phạm, không tin Đức Giê-su
là một Ngôn Sứ, lại càng không tin Người là Đấng Thiên Sai. Thời Giáo hội sơ
khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) rất thù ghét đạo, đã có lần
chế diễu các Ki-tô hữu như sau: “Giê-su Đấng sáng lập đạo của các người chỉ là
một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường! Thật
khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bé,
phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !”
Chúng
ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự. Nhưng Tin
Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su là Con Thiên Chúa lại phải chịu bó tay trước
sự cứng lòng của con người. Con người có thể dùng sự tự do Chúa ban để từ chối
ơn cứu độ của Chúa, như dân làng Na-da-rét xưa do thành kiến đã không tin Đức
Giê-su là Đấng Thiên Sai và không thèm đón nhận ơn cứu độ do Người mang lại.
2) Người đã không thể làm được phép lạ
nào tại đó (Mc 6,5):
Phép lạ là món quà đặc biệt
Chúa ban cho loài người, nhưng người ta chỉ có thể đón nhận được phép lạ khi có
đức tin. Biết bao điều lạ lùng Thiên Chúa muốn thực hiện cho loài người nhưng
họ đã từ chối, giống như các chủ quán ở Be-lem năm xưa đã xua đuổi Đấng Cứu Thế
giáng sinh ra khỏi nhà trọ của họ như Tin Mừng đã ghi nhận: “Người đã đến nhà
mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Thực vậy: Đức Giê-su đến
mặc khải Thiên Chúa là Cha yêu thương và Người là Con Thiên Chúa thì dân Do
thái đã kết án Người là kẻ phạm thượng, là kẻ bị quỷ ám và điên khùng. Người
đến đem bình an, chân lý và thiết lập Nước Trời thì lại bị họ tố là xách động
quần chúng và cầm đầu bọn phản loạn. Cuối cùng, các đầu mục dân Do thái đã ra
tay bắt bớ và lên án tử hình cho Người, rồi họ còn làm áp lực đòi Tổng Trấn
Phi-la-tô phải kết án tử hình thập giá cho Người.
Ngoài
thành kiến thì sự cứng lòng là nguyên nhân khiến người ta cố chấp không muốn
nhìn, không muốn nghe, không muốn tin… như Tin Mừng nói về sự cứng lòng tin của
dân Do thái: “Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a,
rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng
thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng
thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng
cho lành” (Mt 13,13-15).
3) Và họ vấp ngã vì Người:
Vì các người đồng hương
biết rõ về gia cảnh của Đức Giê-su: Người chỉ là con bác thợ mộc Giu-se và mẹ
và anh em bà con của Người cũng đang chung sống giữa họ. Do đầu óc thủ cựu đầy
thành kiến nên họ đã không nhận ra Thiên tính của Đức Giê-su, dù họ có thán phục về tài ăn nói
lưu loát và về sự hiểu biết Kinh Thánh của Người. Một số người trong bọn họ
cũng đã được chứng kiến nhiều phép lạ Đức Giê-su đã làm ở thành Ca-phác-na-um
và các nơi khác để cứu chữa nhiều bệnh nhân, xua trừ quỷ ám, phục sinh kẻ
chết... Nhưng do kiêu ngạo và cố chấp, dân làng Na-da-rét đã không tin Đức
Giê-su là
Đấng Thiên Sai. Chính thành kiến đã là
một trở ngại cho đức tin của người đồng
hương. Theo họ thì Đấng Thiên Sai phải là một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một vị tướng lãnh cầm quân đánh giặc bách chiến bách
thắng, hầu đưa dân tộc Do Thái lên làm bá chủ hoàn cầu. Nhưng
khi thấy Đức Giê-su xuất
thân từ một gia đình lao động nghèo
hèn, có
lối sống bình thường giản dị, thì họ đã không tin nhận Người.
4) “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng
chỉ là ở chính quê hương mình”:
Tiên
tri hay ngôn sứ là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta
nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài cho họ. Kết quả là:
“hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2,5). Thậm chí, lắm khi họ còn đe dọa
mạng sống của các ngôn sứ, nhất là khi các ông tuyên sấm cáo trách tội lỗi của
tầng lớp vua quan. Thánh Kinh đã ghi lại lời ngôn sứ Na-than tố cáo tội ngoại
tình, giết chồng, cướp vợ của vua Đavít; hay ngôn sứ Elia, dám nói thẳng với
vua A-kháp việc ông vua này đã giết và chiếm đoạt tài sản của Na-bót cách bất
công... Kết quả là các ngôn sứ đã bị người đương
thời thù ghét giết
hại. Hôm nay chính Đức Giê-su cũng bị các người đồng hương Na-da-rét chối bỏ
vai trò Thiên Sai của Người, nên Người đã phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở
chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà
thôi” (Mc 6,4). Dù bị khinh thường chối bỏ, nhưng Đức Giê-su vẫn nản lòng, mà luôn
chu toàn sứ vụ Thiên Sai như Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Người đã đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”, rồi Người đi sang các làng khác mà rao giảng
Tin Mừng.
Để có đức tin, chúng ta phải biết mở
rộng tâm hồn, phải tránh lối
hành xử thành kiến và
thói xấu ganh tị là nguyên nhân cản lối
Chúa đi vào ngôi nhà linh hồn
của ta. Nếu để thành kiến và thói ganh tị lấn lướt, chúng ta sẽ khó lòng nhìn
thấy các ưu điểm và khả năng của tha nhân. Nếu ta chỉ dựa trên bằng cấp, sự
nghiệp, chức quyền và gia cảnh mà xét đoán hoặc đánh giá một người, là chúng ta đã để cho thành kiến điều khiển ta. Thực ra,
giá trị của lời nói hay việc làm của một người không tuỳ thuộc vào bằng cấp
cao, sự nghiệp lớn, gia cảnh giàu có… Nếu ta mới chỉ nghe một vài lời nói không
hay, hoặc nhìn thấy một vài khuyết điểm của một người để vội đánh giá không hay
về họ, phủ nhận mọi
việc tốt họ đã làm, là chúng ta cũng đang xét
đoán hồ đồ và có lối ứng xử đầy thành kiến hẹp hòi như dân làng Na-da-rét xưa.
5.LỜI CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa vốn là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Tin
Mừng hôm nay cho thấy: Chúa cũng đã
có lần bị thất bại trước
sự cứng tin của người đồng hương Na-da-rét. Nhiều lần trên
đường rao giảng Tin Mừng, chúng con cũng
bị người đời từ chối không
tin … Xin giúp chúng con kiên
nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải. Trong cuộc sống, dù gặp thành công
hay thất bại, cho chúng con
biết không ngừng tạ ơn Chúa; Cho chúng con đừng bao giờ nản
lòng thối lui, nhưng noi gương Chúa kiên trì đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang” theo
thánh ý Chúa Cha.
Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa và chu toàn sứ mạng
làm chứng cho Chúa.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM