
Tháng 9, 1992, cuốn Giáo lý của
Giáo hội Công giáo đã ra mắt công chúng trong nguyên
bản tiếng Pháp, và ngay sau đó, đã được phổ biến hết sức
nhanh chóng rộng rãi. Tiếp liền sau đợt phát hành đó, các bản
dịch Cuốn Giáo lý mới (CGLM) đã được xuất bản trong
nhiều thứ tiếng khác; nhưng vì gặp phải nhiều khó khăn kỹ thuật, nên
bản dịch tiếng Anh phải chờ cho đến mùa thu năm 1994 mới
chào đời được, tại một nhà xuất bản ở bên Dublin (Ailen). Tháng 6,
1993, Vaticanô đã thành lập một Ủy ban đặc trách công tác biên soạn
một văn bản Latinh cho CGLM mới, làm văn liệu
chuẩn đích chính thức, cho dù trong thực tế bản viết
bằng tiếng Pháp mới chính là nguyên bản. Công tác
dịch thuật ra tiếng Latinh là một việc làm khó khăn,
đòi nhiều công sức, và theo dự trù thì khó mà hoàn thành
sớm hơn được trước cuối năm 1995.
Rồi chi cũng còn có chuyện nới thêm công
trình biên soạn rộng ra nhiều hơn, và nếu thế, thì kỳ hạn
xuất bản cũng phải dời lui chậm muộn hơn nữa. Quả thế,
tạp chí Ý Trenta giorni (Ba mươi ngày), thuộc giới
thân cận đức hồng y Ratzinger, trong số báo tháng giêng 1996, đã
tiết lộ cho biết là việc biên soạn văn bản Latinh sẽ thực hiện một
số điểm sửa đổi hoặc chỉnh lý nhằm bổ túc cho nguyên bản. Dựa vào những
nhận xét của các giám mục và các thần học gia, các thành viên trong
Ủy ban đặc trách công tác biên soạn, cùng với một số nhân viên của
giáo triều Rôma, sẽ đề xuất một văn bản "đã được xem
lại và sửa chữa" của cuốn CGLM ra mắt hồi cuối năm
1992. Căn cứ theo nguồn tin được coi là rất chính xác, tác giả bài
viết đăng trong tạp chí nói trên, cho biết là "Ủy ban của
Vaticanô hiện chưa quyết định để xem sẽ chọn những nhận
xét nào trong các ý kiến đã thâu thập được."
Thế nên, thiết tưởng đây đúng là lúc thích
hợp để đưa ra một vài đề nghị theo chiều hướng nói trên.
Từ 20 năm nay và cả bây giờ, đã và đang dạy thần học bí
tích tại Rôma, rồi suốt trong hai năm qua cũng đã từng đọc đi đọc
lại nhiều lần Phần II trong CGLM, bàn về Việc cử
hành mầu nhiệm kitô, và đã lấy phần này làm đề tài không
những cho giáo trình của khoa mình dạy, mà còn cho
nhiều khóa hội thảo dành cho các sinh viên tha thiết
đối với chủ đề, tác giả bài viết này cảm thấy là không thể
bỏ lỡ cơ hội mà không nói lên suy tư của mình đối với cách
thức CGLM trình bày về các bí tích, một lối trình
bày vén mở cho thấy nhiều tiềm năng phong phú, nhưng đồng thời
cũng để lộ nhiều khiếm khuyết và giới hạn cần xét lại,
cũng như không thể bỏ qua mà không đề nghị một số ý
kiến tu chính cho đợt tái bản sắp tới đã được dự trù.
I. TỪ KẾ HOẠCH BÍ TÍCH CHO
TỚI BẢY BÍ TÍCH TRONG GIÁO HỘI
Tiếp theo sau Phần I bàn về Thái
độ tuyên xưng đức tin, trong Phần II, CGLM đã
dành cả chú tâm để suy tư về Việc cử hành mầu nhiệm kitô. Phần
II này dĩ nhiên là được chia thành hai phân đoạn với các đề mục như
sau: kế hoạch bí tích, và việc học hỏi về bảy bí tích cũng như về
các á bí tích và nghi thức an táng.
1. Kế hoạch bí tích
Trước hết, xin lưu ý đến các thuật ngữ
được sử dụng trong văn bản CGLM.Thay vì dùng
từ ngữ "Các bí tích nói chung" như xưa nay thần
học vẫn thường dùng, thì CGLM đã
dùng thuật ngữ đến "Kế hoạch bí tích," theo
đường hướng mà từ 15-20 năm nay một dạng thần học
chủ trương tìm về với gốc rễ Kinh Thánh, đã đề ra; dùng đến
từ "kế hoạch" như thế, tất có ý nêu cho thấy là đời sống
bí tích nằm ngay ở giữa lòng "kế hoạch cứu độ." Cũng như
từ đầu đã có một kế hoạch cứu độ, tức là phương án Thiên Chúa đề
xuất nhằm cứu độ loài người, thì cũng thế, kể từ khi Chúa Thánh Thần
hiện xuống, đã có một kế hoạch bí tích có sức năng kéo dài lịch sử
cứu độ mà cùng lúc lại hòa nhập vào trong lịch sử ấy. Như
thế, tính chất năng động của các bí tích được nêu bật, tức là muốn
cho thấy rằng chúng đã được thiết lập nhằm biến đổi con người, hay
nói cho đúng hơn, để giải phóng và thần hóa con người.
Ðặt xong tựa đề cho phân đoạn, là CGLM tiến
ngay lên đến bình diện suy tư cao thẳm hơn để giới thiệu về
phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành các bí tích, coi đó là
công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi lẽ, để cử hành các bí tích,
thì Thiên Chúa Cha, Ðức Kitô và Thánh Linh đều phải ra tay hành
động: mọi bí tích, từ phép rửa tội cho đến bí tích xức dầu cho
bệnh nhân, đều được thông ban "nhân danh Cha và Con,
và Thánh Thần." Trước khi hướng nhìn về con người
lãnh nhận bí tích, CGLM đã bỡ ngỡ hướng nhìn
lên các Vị thông ban các bí tích, những tác nhân chính
của các bí tích, là: Thiên Chúa Cha, Ðức Kitô và
Thánh Linh.
CGLM đã dành một trong những trang
viết đẹp nhất cho Thiên Chúa Cha, là cội nguồn và là cùng
đích của mọi thể dạng phụng vụ cũng như của mọi kế hoạch bí tích:
một trang viết đầy thần hứng, giới thiệu toàn bộ công trình của Ngôi
Cha như là "một phúc lành vô bờ Thiên Chúa ban."
Sau phần suy tư thực sự mới mẻ này về công
trình bí tích hiểu theo nghĩa là một phúc lành, CGLM trở lại
với lối diễn đạt cổ điển -- ít nhất là thường được dùng
kể từ sau công đồng Vaticanô II -- để giải thích rằng Ðức
Kitô phục sinh chính là Ðấng hiện đang hoạt động ở trong phụng vụ và
các bí tích. Chẳng hạn như câu văn sau đây -- thật xinh
xắn mà cũng thật bí nhiệm -- đọc thấy ở trong số 1085:
"Mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô... thông phần vào
tính chất vĩnh viễn của Thiên Chúa, vượt lên trên
mọi thời đại, và được hiện diện hóa ở giữa mọi thời
đại." Vì thế,CGLM nhấn mạnh nói rằng hết thảy các
bí tích đều là những bước nối dài của mầu nhiệm vượt qua, và đều là
những hành động ứng dụng mầu nhiệm ấy, bởi vì Ðấng họat động
trong các bí tích, chính là Ðức Kitô đã chịu chết và đã sống lại, là
Ðấng "đang ngồi bên hữu Thiên Chúa Cha" (số 1084), hay
"đang ngự bên hữu của Thiên Chúa" (số 1090).
Ngược lại, một lần nữa và quả là chí lý
CGLM đã đề xuất thêm một sáng kiến mới qua việc dành đến bốn trang
trọn để bàn về tác động của Thánh Thần (và của Giáo hội là thực thể
gắn liền với tác động ấy một cách không thể tách rời
được) ở trong phụng vụ và các bí tích. Nếu CGLM đã dành
bốn trang trọn để bàn về Thánh Thần -- trong khi đó, cũng
trong chủ đề phụng vụ-- bí tích, CGLM chỉ dành có một trang,
dù là tuyệt hay, để đề cập đến Thiên Chúa Cha, và hai trang để viết
về Ðức Kitô -- thì chính là vì Giáo hội tây phương cảm
thấy cần phải tranh thủ thời gian để đi cho kịp đà tiến trong
lãnh vực này: từ thời Trung cổ trở về sau, Giáo hội làm như mắc phải
chứng hay bẵng quên mất Thánh Thần: có nhớ thì hầu như chỉ nhớ đến
trong ngày chịu phép Thêm sức, mà không nhớ rằng Ngài đóng giữ vai
trò then chốt trong các bí tích. Rất may là CGLM đã bổ khuyết
cho điểm thiếu sót to lớn ấy.
Không thể đọc và bình giải hết cả bốn
trang đầy thần hứng này ở đây được, nên chỉ xin nêu lên
sau đây một vài công thức mới mẻ được CGLM dùng đến,
và có sức động viên những ai trong giới thần học gia cũng như tín
hữu, biết lưu tâm để ý:
Trong phụng vụ, Thánh Thần là thầy giáo
huấn đức tin cho dân Chúa (số 1091).
Thánh Thần là tác giả làm nên
những "kiệt tác của Thiên Chúa," là các bí tích
(số 1091).
Ước vọng và công trình của Thánh Thần
ở giữa lòng Giáo hội, là làm cho chúng ta sống thực chính
sự sống của Ðức Kitô phục sinh (số 1091).
Phụng vụ trong Lễ tạ ơn và các bí tích
khác, chính là cuộc tưởng niệm mầu nhiệm cứu độ. Thánh Thần
là "ký ức sống động của Giáo hội" -- như Ga 14,26 đã
nói rõ: "Thánh Thần sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì
Thầy đã nói với anh em" (số 1099).
Trong phụng vụ, là Ðấng thức tỉnh ký ức
của Giáo hội, Thánh Thần cũng là Ðấng khơi dậy tâm tình tạ
ơn và tán tụng (số 1103).
Epiclesis, tức là kinh khẩn cầu Thiên
Chúa Cha phái gửi Thần Khí thánh hóa của Ngài đến, luôn có
mặt ở giữa lòng của mọi nghi thức cử hành bí tích (số
1106).
Việc khẳng định cương quyết như thế
-- và nếu có lưu ý về sự kiện đó thì không phải là chuyện
thừa -- tất sẽ cho phép dự kiến về đường hướng
nhận thức đối với một số bí tích: ngay cả sau công đồng
Vaticanô II, Sách Nghi thức hôn phối cũng không đề cập gì đến Thánh
Thần; phải đợi cho đến lần tái bản bằng tiếng Latinh ấn hành năm
1991, mới đọc thấy được một lời kinh ngăn ngắn khẩn cầu Thánh Linh;
Sách Nghi thức hôn phối trong các thứ tiếng khác vẫn còn chưa biết
đến lời kinh ngắn này. Trong bí tích cáo giải, việc đặt
tay -- là hành động đáng lẽ ra phải đi
kèm theo với lời kinh giải tội -- cũng bị quên
lãng, không thấy có. Và sau này, khi bàn về các bí
tích, chính CGLM cũng thường lãng quên, không nhắc gì đến
những điều đã nói về kinh khẩn cầu Thánh Linh.
Hoa trái của Thánh Thần ban qua phụng vụ
và các bí tích, là được thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa
và cùng lúc, với cộng đoàn huynh đệ (số 1108).
Vậy, thái độ chú tâm đăm nhìn về Ba Ngôi
Thiên Chúa đang hoạt động trong các bí tích, chính là điểm đổi mới
đầu tiên và cơ bản mà CGLM đã mang lại. Từ nay, các trẻ
em học giáo lý theo CGLM 1992, sẽ thấu biết rằng hết thảy mọi bí
tích, ngay cả những bí tích cử hành một cách hoàn
toàn thầm kín, thì đều tiến hành qua hoạt động của
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và mỗi bí tích một
cách, đều làm cho chúng ta tham dự vào sự sống nhiệm mầu cùng vô
biên của Ba Ngôi chí thánh.
Ðâm rễ sâu vào trong truyền thống Giáo
hội, và phục hồi tốt đẹp được nhiều yếu tố đã từng bị
lãng quên, công trình suy tư như thế về kế hoạch bí tích chi
rồi cũng sẽ đâm hoa kết trái với những thành quả hết sức
tích cực. Và thế là một phương pháp mới mẽ đã được cổ vũ và sắp sẵn
cho việc nghiên cứu về các bí tích. Tuy nhiên, còn cần phải xác minh
xem những đường hướng đề ra trong phân đoạn một này có
được thực sự áp dụng vào trong phân đoạn hai hay không. Có thực sự
có một đà liên tục và một mối nhất quán giữa các nguyên tắc tốt đẹp
đề ra trên đây, và việc áp dụng chúng vào trong trường hợp của
từng bí tích, cũng như vào trong đời sống bí tích của các
kitô hữu và của các cộng đoàn kitô hay không?
2. Bảy bí tích của Giáo hội
Trước hết, xin nêu lên một vài nhận xét về
đề cương và phương pháp dùng đến trong phân đoạn (II)
này. Trong khi Hiến chế về Phụng vụ của công đồng
Vaticanô II dành một chương riêng cho "mầu nhiệm Thánh
Thể" và chương tiếp đó cho "các bí tích khác,"
làm như có một siêu bí tích, còn sáu bí tích kia chỉ là nhữnh
bí tích thứ yếu; thì CGLM lại liệt kê theo thứ tự thời gian diễn
tiến tự nhiên của các bí tích: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể
-- là ba bí tích khai tâm kitô giáo; trong số đó, Thánh
Thể cũng đã được CGLM dành một chỗ đứng đặc biệt nổi bật,
và được gọi là "bí tích của các bí tích" (số 1330);
-- rồi đến các bí tích Cáo giải và Xức dầu
-- là hai bí tích điều trị -- và cuối cùng là
các bí tích Chức thánh và Hôn phối -- đã được xếp chung
dưới cùng một tiêu đề hơi lạ, là "bí tích dịch vụ hiệp
thông," xét ra còn có thể hiểu được đối với trường hợp bí tích
Chức thánh, nhưng đối với bí tích Hôn phối, thì cần phải có
nhiều thiện chí hay cần phải giải thích cho rõ hơn,
may ra mới hiểu nổi.
Tất cả và mỗi bí tích đều được trình bày
theo cùng một sơ đồ hay đề cương nhất định, thường gồm sáu câu
hỏi như sau:
1. Bí tích này được gọi bằng tên gì? Phần
trả lời cho biết về các danh xưng khác nhau, được dùng ở
bên Ðông phương hay bên Tây phương, để đặt tên cho bí tích
ấy: các danh xưng khác nhau như thế làm cho nổi bật những khía
cạnh khác nhau của bí tích.
2. Chỗ đứng của bí tích này ở trong kế
hoạch cứu độ. Phần trả lời nêu cho thấy những hình
ảnh trong Cựu Ước chỉ về bí tích ấy, mối quan hệ nó có đối
với cuộc sống và hoạt động của Ðức Giêsu, cũng như chỗ
đứng của các bí tích ở trong đời sống của Giáo hội.
3. Bí tích này được cử hành như thế nào?
Phần trả lời giải thích cho biết về nghi thức phụng vụ
của bí tích, và thường thì có một vài suy tư đi kèm theo để giúp
nhận định về những hình thức khác nhau trong cách cử hành bí tích.
4. Ai có thể lãnh nhận bí tích này? Tức là
có thể làm chủ thể của bí tích.
5. Ai có thể ban bí tích này? Tức là bàn
đến vấn đề thừa tác viên: một vấn đề phức tạp hơn là
người ta thường tưởng.
6. Những hiệu quả, hay đúng hơn, ân sủng
bí tích này mang lại.
Cách trình bày dựa theo đề cương trên đây
có hai điểm lợi: một đàng là giúp cho có được cơ hội nghiên
cứu hành động bí tích theo viễn cảnh Kinh Thánh,
bằng cách đọc lại toàn bộ kế hoạch cứu độ, là cội
nguồn xuất phát của kế hoạch bí tích; và đàng khác là chỉ
giới thiệu về thần học và quy cách của bí tích, -- tức là
nói về chủ thể, thừa tác viên và hiệu quả -- 19 sau khi đã trình bày
về thể thức cử hành bí tích. Nói cách khác, thần học căn cứ
theo phụng vụ; lex credendi dựa vào lex
orandi hay lex celebrandi. Không có chuyện: một bên là
nền thần học về bí tích Rửa tội hay Thánh Thể, được các
nhà thần học thông thái soạn thảo ra, và bên kia là quy
cách thực hành bí tích, mà có may mắn lắm thì được xếp vào hàng các
sinh hoạt mục vụ. Cả Sách Lễ lẫn Sách Nghi thức đều được trưng dẫn
như là những nguồn liệu của giáo lý và thần học. Sơ đồ dựa
theo sáu điểm như thế không phải là một thứ khuôn mẫu ngay
đơ cứng nhắc. CGLM đã không áp dụng nó một cách tuyệt đối và nhất
luật cho tất cả các bí tích. Quả vậy, ai cũng thừa biết là
giữa bảy bí tích, hễ có bao nhiêu điểm giống nhau, thì
cũng có bấy nhiêu điểm khác nhau, và rằng cứ cố dùng những
phương cách phân tích như nhau để cùng đồng loạt nghiên cứu về mọi
bí tích, là một việc làm nguy hiểm và có tính cách giản lược: thần
học kinh viện đã từng bị lâm vào thế lúng túng khi muốn áp dụng
cho hết cả bảy bí tích, các thứ phạm trù chất thể và mô
thức, là những phạm trù không chút thích đáng đối với Hôn
phối và Cáo giải, và đã bị CGLM sáng suốt can đảm gạt
bỏ hoàn toàn.
Thế nên, tuy vẫn giữ sáu câu hỏi cơ bản,
CGLM đã không ngần ngại dựa theo bản chất của mỗi bí tích
mà ghi thêm những nhận định bổ túc xét thấy hợp lý, chẳng hạn: đối
với bí tích Rửa tội, vấn đề cần phải chịu phép Rửa (bằng nước) và
dùng đến các cách thức thay thế -- tức là rửa tội
"bằng máu" (=chịu tử đạo) và rửa tội "bằng
lửa" (=ước muốn chịu phép Rửa), những khi cần
-- đã được bàn đến; đối với bí tích Thánh Thể, suy tư
thần học đã được khai triển thích đáng qua ba khía cạnh khác
nhau: hy lễ bí tích, bữa tiệc tạ ơn, và chiều hướng
cánh chung của bí tích; còn trong thiên bàn đến bí
tích Chức thánh, thì một phần phụ bổ đã được ghép thêm
vào để phác trình về vấn đề gay cấn mà lý thú, do các
thừa tác vụ của ba bậc chức thánh -- phó tế, linh mục
và giám mục -- đặt ra. Chỉ trong thiên bàn về bí tích
Cáo giải, sơ đồ nói trên mới bị đảo lộn hoàn toàn, một
cách khó hiểu như sẽ thấy trình bày trong một phần sau của bài viết
này.
Cũng cần vui mừng mà nói thêm rằng khi
trình bày về các bí tích, hầu như bao giờ CGLM cũng dùng
đến hình thức đối chiếu theo kiểu nhất lãm để song song giới thiệu
truyền thống hay lề lối thực hành của Ðông phương và của Tây phương.
Xin đan cử thí dụ bí tích Hôn phối: Giải đáp cho câu hỏi ai
là thừa tác viên của bí tích này, CGLM đã trả lời cho
biết là có hai truyền thống khác nhau, nhưng cũng đều là chính thống
cả:
"Trong Giáo hội Latinh, chính các
người kết hôn thường được coi là những thừa tác viên của
ơn Chúa, tức là chính họ ban bí tích Hôn phối cho nhau bằng cách nói
lên sự ưng thuận của mình trước mặt Giáo hội. Trong các dạng thể
phụng vụ đông phương, linh mục hoặc giám mục làm thừa tác viên cho
bí tích (được gọi là "lễ gia miện”), tức là làm
người giữ vai lần lượt đặt vòng hoa lên đầu hôn phu
và hôn phụ như là dấu chỉ của hôn ước, một khi đã ghi
nhận sự ưng thuận của hai phía" (số 1623).
Khẳng định một cách tế nhị như thế là CGLM
quả đã nêu rõ cho thấy bản chất thực sự công giáo của
mình: chứ không chỉ là một Cuốn Giáo lý Rôma như cuốn giáo lý
đã được ấn hành tiếp theo sau công đồng Trentô. Lại một lần nữa,
CGLM đã dựa theo một nhãn quan rộng rãi hơn, phong phú hơn, và có
tính cách đại kết hơn để trình bày về các mầu nhiệm bí tích.
II. MẦU NHIỆM VƯỠT QUA VÀ
THÁNH THẦN CÓ MẶT HAY KHÔNG Ở TRONG VĂN BẢN CGLM
Khi ngẫm đọc cho kỹ 25 trang CGLM dành
để trình bày về Kế hoạch bí tích (các số
1076-1209), thì không ai mà không khỏi lưu ý đến cung cách
nhấn mạnh và thái độ hào hứng lộ rõ qua phần giáo lý này
những lúc đề cập -- hoặc xem ra đề cập -- đến
hai nguồn mạch của đời sống bí tích là mầu nhiệm vượt qua và Thánh
Thần. Ðối với thần học bí tích, đó là một điểm đề xuất mới; vì thế,
cần phải khảo sát cho kỹ hơn để xem hai mầu nhiệm ấy
đã được trình bày như thế nào, và tại sao chúng có thể
mang lại -- hay không mang lại được -- sinh khí
cho giáo huấn về các bí tích.
1. Mầu nhiệm vượt qua
Ngày từ đầu phân đoạn này, CGLM
đã tuyên bố rằng "điều mà Truyền thống chung bên
Ðông phương cũng như bên Tây phương gọi là kế hoạch bí
tích, là chính việc chuyển thông (hay phân phát) những
hoa trái do mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô mang lại,
qua phương thức cử hành phụng vụ bí tích của Giáo
hội" (số 1076). Các chương của phân đoạn này mang
những tựa đề quả là rạng rỡ: "Mầu nhiệm
vượt qua trong thời đại của Giáo hội," "Mầu
nhiệm vượt qua trong các bí tích của Giáo hội,"
"Việc cử hành mầu nhiệm vượt qua theo phương thức bí
tích."
Tuy nhiên, có điều lạ là chẳng thấy nội
dung ứng đáp được gì cho xứng hợp với những tiêu đề rạng rỡ
kia, và suốt trong 25 trang trình bày ấy, vỏn vẹn chỉ có
một tiểu đoạn (số 1085) duy nhất là thực sự nói đến mầu nhiệm vượt
qua mà Ðức Kitô "biểu chỉ và thực hiện" ở trong phụng vụ
và các bí tích. Ðiều đó đã đưa đến cảm nghĩ cho rằng tác giả đã
đặt ra những tựa đề cao đẹp ấy, hẳn không phải là chính
soạn giả đã viết ra nội dung của phân đoạn này. Ngoài ra, còn có sự
kiện đập thẳng vào mắt và chất đầy ý nghĩa này nữa là
không thấy thành ngữ "mầu nhiệm vượt qua" được liệt kê
ở trong phần mục lục các chủ đề. Nhưng cũng nên ghi nhận là mầu
nhiệm vượt qua xuất hiện trở lại -- xác đáng dù là ngắn
ngủi -- khi CGLM bàn đến việc cử hành ngày của Chúa
(Chúa nhật: các số 1166-1167) và năm phụng vụ là chu
kỳ kính mừng khơi mạch "cội nguồn ánh sáng của
mình" từ trong Tam nhật (thánh) vượt qua (các số 1168-1171).
Rồi tiến thêm một bước, độc giả tò mò
sẽ tiếp tục theo dõi cách thức trình bày về bảy bí tích,
để tìm xem mầu nhiệm vượt qua -- đã từng được đoạn mở đầu
và ba tựa đề các chương đề cao, nhưng lại không được nội dung văn
bản đào sâu cho mấy, -- có được kính mừng và thực thi ra
giữa cuộc sống qua bảy giai đoạn trong tiến trình bí tích hay
không, và nếu có, thì bằng cách nào.
Khởi sự trình bày về bí tích Rửa
tội, là CGLM đã lưu ý ngay rằng từ gốc Hy lạp dùng làm danh xưng
cho bí tích, có nghĩa là "dìm sâu," và vì thế, đối với
người kitô "hành động dìm sâu xuống nước tượng trưng cho việc
người dự tòng được chôn vùi vào trong sự chết của Ðức Kitô, để
rồi từ đó trỗi dậy mà sống lại cùng với Người" (số
1214). Giáo huấn thần học này của thánh Phaolô về bí tích Rửa tội
-- được coi như là hành động thông phần vào trong mầu
nhiệm vượt qua -- đã được biểu đạt rõ, đặc biệt là qua
đoạn viết nổi tiếng Rm 6,3-4 mà số 1227 đã trích dẫn nguyên văn.
Bổ sung một cách độc đáo giáo huấn của
thánh Phaolô -- mà Giáo hội hằng bảo toàn --
CGLM nói rõ rằng: "Lúc tiến hành cuộc vượt qua
của Ngài, là chính lúc Ðức Kitô mở rộng các nguồn suối
phép rửa cho hết thảy mọi người. Quả thế, nói trước về cuộc khổ nạn
Ngài sắp chịu tại Giêrusalem, Ngài đã coi đó như là một cuộc tẩy rửa
Ngài sắp phải chịu (Mc 10,38)" (số 1225). Như thế, mối
giây liên hệ nối liền phép rửa lại với mầu nhiệm vượt
qua, không phải chỉ được một mình Phaolô nói đến -- dĩ
nhiên là Gioan trình bày giáo lý ấy theo một cung cách
khác, tức là coi phép rửa như là một cuộc tái sinh
bởi nước, và nhất là bởi Thần Khí (Ga 3,5)
-- nhưng thực sự đã được chính Ðức Kitô khẳng định khi
Ngài nói rõ về mối quan hệ giữa phép rửa và cuộc khổ nạn
Ngài chịu, như Máccô đã kể lại (10,38-39, và như Luca đã cho thấy
một cách âm thầm hơn (12,50). Là một điều thích đáng sự
việc CGLM mời gọi người kitô cũng như nhà thần học để tâm
gẫm suy về ý nghĩa phép rửa của cuộc khổ nạn Ðức Kitô đã
chịu.
Trong phần nói về bí tích Thêm
sức, là bí tích giữ vai trò bổ sung hay củng cố cho phép
Rửa, tuyệt nhiên không hề thấy có một lời nào trực tiếp
nhắc đến mầu nhiệm vượt qua; và biến cố Hiện xuống được
coi là mầu nhiệm quy chiếu của bí tích này.
Trái lại và là chuyện dĩ nhiên, bí
tích Thánh Thể được giới thiệu qua biến cố thiết lập ngay ở
trong bối cảnh vượt qua, như là "việc hồi niệm cuộc
khổ nạn và phục sinh của Ðức Chúa" và như là hy lễ "hiện
tại hóa cuộc hiến tế duy nhất của Ðức Kitô Cứu Thế" (số 1330).
Cả một phần khai triển gồm 4 số được dành để trình bày về việc thiết
lập Thánh Thể, là cuộc hy tế "đưa lễ Vượt qua của Do
thái giáo đến mức thành tựu, và tiên báo về lễ Vượt qua cách chung
mà Giáo hội sẽ mừng trong vinh quang Nước Trời" (các số
1337-1340). Thánh Lễ là "cuộc cử hành phụng vụ... của việc hồi
niệm về Ðức Kitô: về cuộc sống, cuộc tử nạn và phục sinh
của Ngài, cũng như về sự việc Ngài hằng bầu cử (cho chúng ta) bên
cạnh Thiên Chúa Cha" (số 1341). CGLM cũng đã trình bày dài rộng
như thế về Thánh Lễ, coi đó là việc hồi niệm cuộc vượt qua hay cuộc
hy tế của Ðức Kitô (các số 1362-1372).
Tuy nhiên, có điều này sẽ làm cho độc
giả bỡ ngỡ không ít, đó là: sau phần trình bày dài rộng
về hy lễ và sự hiện diện của Chúa, lúc bước sang đoạn giới thiệu về
phần chịu lễ, độc giả sẽ đọc thấy một tiêu đề thật là đẹp: "Bữa tiệc
vượt qua," nhưng một lần nữa, lại gặp phải cảnh tiêu
đề và nội dung không ăn khớp với nhau. Trong 4 trang nói về
"bữa tiệc vượt qua," từ ngữ "vượt qua" chỉ được
dùng đến có một lần duy nhất (và như là đồng nghĩa với từ
"phục sinh"), để nhắc nhở cho người kitô nhớ là mình có
bổn phận phải chịu lễ một năm ít là một lần, và "nếu có thể thì
trong mùa phục sinh" (số 1389). Còn điều mà tiêu đề loan báo
thì khác hẳn; và lẽ ra những gì đã được nói lên trước
đó về Thánh Thể -- coi Thánh Thể là cuộc hồi niệm
biến cố tử nạn và phục sinh của Ðức Chúa
-- cần phải được tiếp tục khai triển với một thể dạng
huấn giáo thích đáng về việc chịu lễ, coi đó là cách thức người
kitô và cộng đoàn đoàn tham dự thông hiệp vào trong mầu nhiệm vượt
qua ấy. Chú ý ắt độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên đặt nghi vấn về
tình trạng bất nhất, đứt đoạn và bỏ sót như thế kia.
Lắng lo là cảm tưởng khó mà tránh được
lúc phải bàn đến bí tích Thống hối và Hòa giải. CGLM
trình bày về bí tích này trong một cách thức hoàn toàn khác thường.
Giữa các danh xưng dành cho bí tích này, CGLM đã sắp
tên gọi "bí tích hòa giải" vào cuối danh
sách, và giới thiệu việc hòa giải này như là một hồng ân
do lòng thương của Thiên Chúa ban xuống, mà chẳng đề cập gì đến Ðức
Kitô (số 1424). CGLM trưng dẫn lời khuyên sắc bén của thánh
Phaolô: "Hãy làm hòa với Thiên Chúa" (2Cr 5,20), nhưng
lại tách nó xa ra khỏi văn cảnh của nó:
"Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô cho
chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi
chức vụ hòa giải. Thật vậy, trong Ðức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế
gian được hòa giải với Người... Vậy, nhân danh Ðức Kitô, chúng tôi
nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Ðấng chẳng hề biết tội
là gì, Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội
lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong
Người" (2Cr 5,18-21).
Khó mà thánh Phaolô nhận ra cho được lời
viết của chính mình trong câu trưng dẫn đã bị cắt cụt kiểu
đó; và phải nói là câu trưng dẫn cắt cụt ấy sẽ đưa đến
chỗ làm cho tư tưởng thần học về hòa giải của ngài "mất hẳn đi
tính chất kitô." Lẽ ra CGLM phải lấy lại đoạn mở đầu
ở trong Sách nghi thức thống hối, giới thiệu về một
nền thần học hòa giải đượm thắm tính chất kitô và vượt
qua như sau: "Thiên Chúa Cha đã tỏ lòng xót thương của Ngài nơi
Ðức Giêsu, Con Ngài: nơi Người và qua Người, Chúa Cha đã muốn
hòa giải mọi sự với mình và đem lại bình an nhờ máu Ðức
Kitô đổ ra trên thập giá (xem 2Cr 5,18tt; Cl 1,20)." Thể dạng
thần học hòa giải đượm đầy tính chất kitô và vượt qua như thế xem ra
chính xác hơn là mẫu thần học đơn thuần "thiên chúa" mà
CGLM giới thiệu.
Dẫu vậy, một cách gián tiếp và mặc nhiên,
CGLM cũng đã ngầm chỉ về mầu nhiệm vượt qua, bằng
cách giới thiệu bí tích hòa giải như là bí tích bổ
sung hay nối dài cho phép rửa (số 1425-1426).
Mầu nhiệm vượt qua không có và không thể
có được một chỗ đứng đúng với địa vị của mình, ở trong phần trình
bày dài rộng kia về bí tích thống hối và hòa giải, bởi một lẽ rất
đơn giản là: vì bỏ hẳn đi phương thức vẫn được dùng đến
để giới thiệu các bí tích khác, CGLM không còn bước theo
tiến trình và đà phát triển của bí tích hòa giải trong kế hoạch cứu
độ nữa; và như thế, những bước chuẩn bị cho bí tích đọc thấy ở trong
Cựu Ước, những lời Ðức Kitô kêu gọi hoán cải, thái độ nhân
hậu của Ngài đối với các tội nhân, mầu nhiệm cốt lõi về
cuộc tử nạn và sống lại, tức là mầu nhiệm làm cho con người được hòa
giải với Thiên Chúa Cha, v.v... đều bị gạt bỏ ra ngoài, không còn
được lưu ý tới.
Trong tất cả những trang dành riêng để
trình bày về bí tích Cáo giải, mầu nhiệm vượt qua chỉ được gợi
lên vỏn vẹn có hai lần: lần đầu là nơi đoạn giới
thiệu công thức xá giải dùng trong Giáo hội Latinh kể
từ khi công bố Sách Nghi thức mới: "Cha nhân từ
là nguồn mọi sự tha thứ. Người làm cho những tội nhân
được hòa giải nhờ cuộc vượt qua của Con mình và ân huệ của Thần Khí
Người, qua lời cầu khẩn và thừa tác vụ của Giáo hội"
(số 1449). Tiếp theo đó là công thức xá giải quen
thuộc, trong đó, có nói rõ là Thiên Chúa, Cha chúng ta,
"đã dùng sự chết và sự sống lại của Con Một Người mà
giao hòa thế gian với Người."
Lần thứ hai nhắc đến mầu nhiệm vượt qua là
lần ngầm chỉ về mầu nhiệm này ở trong đoạn kết luận mang
tựa đề Tóm kết: "Buổi chiều ngày Phục sinh,
Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ và nói với họ rằng:
Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì tội
người ấy được tha; anh em cầm tội ai, thì tội người bị cầm
giữ (Ga 20,22-23)."
Thực là xác đáng, việc CGLM trưng dẫn (số
1485) đoạn văn cơ bản trên đây: đoạn văn làm chứng từ cho
việc thiết lập bí tích Cáo giải, và nói lên rõ mối liên kết nối liền
biến cố Ðức Kitô sống lại, ân huệ nhận được Thánh Linh và sứ mạng
tha tội lại với nhau. Nhưng có điều khó hiểu, là tại sao đoạn văn
quan trọng đến như thế -- và hơn thế nữa, quan trọng nhất
trong toàn bộ Phúc Âm nói về bí tích Cáo giải
-- lại không được viện dẫn và tận dụng ngay ở
trong phần chủ chốt của văn bản, mà chỉ được nhắc sơ qua
ở trong đoạn Tóm kết. Vậy, phải lấy làm tiếc mà nhận là
ánh sáng của mầu nhiệm vượt qua đã không được dùng đến để soi sáng,
nếu không phải là cho tòa giải tội, thì ít nhất là cho
nơi chốn trang nghiêm mà tươi vui của cuộc gặp gỡ giữa người kitô
tội nhân và Thiên Chúa nhân hậu.
Bí tích Xức dầu cho bệnh nhân được
giới thiệu một cách thỏa đáng hơn. Hơn ai hết, người ốm đau, yếu
nhược vì tuổi tác, và có thể là đang ở trong tình
trạng nguy tử, là những người cảm thấy nhu cầu thể chất,
tâm lý cũng như thiêng liêng, cần được kết hiệp với Ðức Kitô trong
mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Quả thế, phần giáo lý bàn đến bí tích
Xức dầu, đã mở đầu với lời trưng dẫn trích từ hiến chế Lumen
gentium (Ánh sáng muôn dân), số 11, viết như sau:
"Qua phép Xức dầu thánh và lời
cầu nguyện của các linh mục, toàn thể Giáo hội phó
thác bệnh nhân cho Chúa Kitô đau khổ và hiển vinh, để
Người ủi an và cứu rỗi họ; hơn nữa, Giáo hội còn thúc
giục họ sẵn sàng kết hợp với Chúa chịu đau khổ và chịu chết, để mưu
ích cho toàn dân Thiên Chúa" (số 1499).
Vậy là bí tích đã được đặt đúng ngay vào
chỗ đứng thích đáng của mình. Nhờ thế, độc giả sẽ không
chút ngạc nhiên khi đọc thấy trong một đoạn sau, lời viết dưới đây
gợi lại lịch sử cứu độ:
"Trên thập giá, Ðức Kitô đã gánh
lấy trọn gánh nặng của sự ác và đã xóa sạch 'tội trần
gian' (Ga 1,29), mà bệnh tật là một hậu quả. Do bởi cuộc khổ nạn và
tử nạn trên thập giá, Ðức Kitô đã mang lại một ý nghĩa mới cho khổ
đau: từ nay khổ đau có khả năng đồng nhất hóa chúng ta với
Người và nối kết chúng ta lại với cuộc khổ nạn cứu độ
của Người" (số 1505).
Giữa những hoa trái của bí tích, CGLM
một lần nữa nhắc đến "sự kết hiệp với Ðức Kitô đau
khổ" (số 1521); còn đối với trường hợp của
những kitô hữu sắp từ giả cõi đời, CGLM đã nhận định một cách chí lý
rằng "phép Xức dầu cho bệnh nhân hoàn tất việc đồng nhất hóa
chúng ta với cuộc khổ nạn và tử nạn của Ðức Kitô, là việc
mà bí tích Rửa tội đã khởi sự" (số 1523). Cứ thế mà xét, thì
phải nói là cách thức CGLM giới thiệu bí tích Xức dầu là một cách
thức tuyệt hảo, xứng đáng làm mẫu mực.
Nói đến bí tích Chức thánh là
có thể đoán ra ngay được mối quan hệ phức tạp mà bí tích này có đối
với mầu nhiệm vượt qua. Ðúng thế, chủ yếu là nhờ đã được
lãnh nhận chức tư tế mà giám mục và linh mục thông dự vào chức tư tế
duy nhất của Ðức Kitô: Ðức Kitô là tư tế duy nhất, tư tế đích thực,
là Ðấng "chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm
cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo" (Dt 10,14),
nghĩa là chỉ dâng hy lễ duy nhất trên thập giá. Linh mục cũng như
giám mục đều là những thừa tác viên của Vị tư tế duy nhất
ấy (các số 1544-1545).
Ngoài đường lối suy tư tư tế ấy ra, CGLM
đã không hề nhắc gì đến mầu nhiệm vượt qua trong một cách
thức nào khác. Ðáng lý ra là phải suy nghĩ nhiều hơn, như
nhiều linh mục và giám mục thường làm, về mối liên quan giữa thừa
tác vụ được trao phó và mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô. Qua bài
khuyến dụ trong phụng vụ truyền chức linh mục, giám mục chủ
phong nhắn nhủ rằng:
"Hãy cố làm sao cho cuộc sống
của chúng con đi đúng với những gì chúng con thực hiện:
khi cử hành mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Ðức Kitô,
hãy lo ra sức làm cho mọi khuynh hướng xấu chết đi trong chúng con,
và vững bước tiến tới trên đường sống mới."
Ðáng lẽ CGLM phải mở ra một đường
lối suy tư tương tự như thế thì mới đạt.
Ngoài ra, con đường tư tế mà linh mục và
giám mục dấn thân bước vào, cũng chẳng phải là con đường
của phó tế. Như thế, theo giáo huấn của CGLM, chức thánh phó tế xem ra như là
chẳng có quan hệ gì với mầu nhiệm vượt qua. Phải có cặp
mắt thật tốt, hay là phải có một lòng say mê tha
thiết đối với thừa tác vụ phó tế, thì mới nhận ra được
một câu ngắn khẳng định rằng do việc truyền chức thánh, phó
tế được đóng ấn tích "làm cho họ nên giống Ðức
Kitô, là Ðấng đã đích thân làm diákonos, tức
là làm người phục vụ mọi người" (số 1570). Và trong
phần chú thích, văn bản CGLM trưng dẫn thêm câu Mc 10,45; có thể là
câu trưng dẫn này sẽ không được ai lưu ý tới, nhưng không phải vì
thế mà chỉ là một câu vô thưởng vô phạt; trái lại nó có
thể mở ra những viễn ảnh bát ngát với nhiều đòi hỏi dấn thân đi kèm
theo. Chính thế, câu Phúc Âm nói rằng: "Con người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ
và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn
người." Công tác phục vụ mà Ðức Kitô đã chu tất và
được nêu cao làm mẫu gương cho các phó tế bắt chước,
không phải đơn thuần là chuyện hưởng nhàn: công tác ấy
trực tiếp đi liền với mầu nhiệm vượt qua, với mầu nhiệm hy sinh mạng
sống -- hoàn tất trong một ngày hay suốt trong thời gian
ngày qua ngày của cuộc đời -- cho phần rỗi của muôn dân.
Phúc cho những phó tế biết coi trọng giáo huấn của CGLM
và nhất là của Phúc Âm, để mà dấn thân đi sâu vào trong
mầu nhiệm vượt qua! Và có linh mục, giám mục nào mà lại không nhớ là
một ngày nọ mình cũng đã chịu chức phó tế, và mãi
mãi mình vẫn là phó tế, là người phục vụ, người tôi tớ
theo mẫu gương Ðức Kitô Người Tôi Tớ.
Ðối với bí tích Hôn phối, thì
vấn đề xem ra đơn giản hơn. Bàn về bí tích này, CGLM đã không
đả động gì đến mầu nhiệm vượt qua. Tuy nhiên, đi sát với
thực tế và ý thức rằng trong nhiều nơi, tỷ lệ ly dị
hôn nhân đã lên đến mức khá cao, và rằng dù sao thì cuộc
sống chung trong hôn nhân cũng khó mà tránh cho được những khủng
hoảng nhiều ít trầm trọng, CGLM đã nhắc nhở cho các bậc vợ chồng nhớ là họ cần phải
có sức mạnh và ơn trợ giúp của Ðức Kitô ban cho thì mới có thể sống
đời hôn nhân của mình đúng theo giáo huấn của Phúc Âm được:
"Có biết bước theo Ðức Kitô, có biết
từ bỏ chính mình mà vác lấy thập giá của mình, thì các
người làm vợ làm chồng mới có thể hiểu thấu được ý nghĩa nguyên thủy
của hôn nhân, và sống trọn được ý nghĩa ấy nhờ ơn trợ giúp của Ðức
Kitô. Ơn hôn phối ấy là một thành quả phát nguyên từ thập
giá Ðức Kitô, nguồn suối của mọi thể dạng đời sống kitô" (số 1615).
Có thận trọng, thì cũng cần phải nói rõ rằng hôn nhân kitô không
làm cho thoát khỏi được vòng khổ nạn, đớn đau, cũng như
không đánh mất đi những cảnh sống lại tươi sáng hân hoan, là tất cả
những gì giúp cho các cặp vợ chồng được thông phần vào trong mầu
nhiệm thập giá và cuộc vinh thắng vượt qua của Ðức Kitô.
Như vậy, CGLM đã ghi nhận lại những
cảm thức cơ bản của công đồng Vaticanô II về vị trí
trọng yếu mà mầu nhiệm vượt qua đóng giữ ở trong việc cử
hành phụng vụ và các bí tích. Nhưng CGLM lại không đào cho sâu thêm đường hướng
suy tư ấy như người ta hằng vẫn chờ mong, và cũng không
áp dụng nó một cách đồng đều, vào trong từng trường hợp của các bí
tích. Chắc chắn đợt tái bản sắp tới rồi sẽ có cơ hội để tận dụng cho
thích đáng hơn, những gì đã được nói lên trong đoạn tuyên
bố mở đầu phần giới thiệu các bí tích, viết rằng
"kế hoạch bí tích là chính việc chuyển thông (hay phân
phát) những hoa trái do mầu nhiệm vượt qua của Ðức
Kitô mang lại, qua phương thức cử hành phụng vụ bí tích của Giáo
hội" (số 1076).
2. Chúa Thánh Thần và các bí tích
Về vấn đề này, chúng tôi chỉ xin thảo luận
một cách vắn tắt, vì ba lý do sau đây: khuôn khổ giới hạn
của bài viết không cho phép làm khác; trong một phần
trước, bài viết đã có dịp bàn đến chỗ đứng mà CGLM dành cho
Thánh Thần ở trong kế hoạch bí tích; và cuối cùng, nếu có những điểm
cần bổ sung liên quan đến vấn đề này, thì bài viết sẽ có
dịp nêu lên trong phần trình xuất những đề nghị gợi ý cho đợt tái
bản sắp tới.
Bàn chung về các bí tích, CGLM đã khẳng
định rằng Thánh Thần là tác giả làm nên những "kiệt
tác của Thiên Chúa" là các bí tích (số 1091), và rằng
"kinh khẩn cầu xin Thánh Linh đến... nằm ngay ở giữa lòng của
mỗi buổi cử hành phụng vụ bí tích" (số 1096). Các lời
khẳng định xác đáng và mạnh mẽ như thế có thực sự được thể
hiện ra trong phần trình bày về từng bí tích hay không?
RỬA TỘI
Phép Rửa quả là một bí tích của
Thần Khí và trong Thần Khí. Chẳng những ngay từ đầu
phép Rửa xuất hiện như là "ngưỡng cửa dẫn vào đời
sống trong Thần Khí" (số 1293), mà giữa các danh xưng khác
nhau, bí tích ấy còn mang những danh hiệu như là "nước tái sinh
và đổi mới trong Thánh Thần" (Tt 3,5), hay "cuộc tái sinh
bởi nước và Thần Khí" (Ga 3,5); như thế, tư tưởng thần học của Phaolô
và của Gioan đồng thanh nói lên mối liên hệ giữa nước và Thần Khí
(số 1215). Diễn tả rõ hơn, CGLM đã khẳng định rằng "Nhờ
Thánh Thần, phép Rửa mới là nước có sức năng thanh
tẩy, thánh hóa và công chính hóa" (số 1227).
Kinh khẩn cầu (epiclesis) xin
Thánh Thần đến thánh hiến nước rửa tội đã được nhắc đến rõ ràng:
"Giáo hội khẩn xin Thiên Chúa, nhờ Con của Người,
làm cho sức mạnh của Chúa Thánh Thần xuống trong nước
này, ngõ hầu những ai được rửa trong nước ấy, thì
cũng được sinh ra từ nước và Thần Khí" (số 1238).
Việc xức dầu thánh "tượng trưng cho ơn Thần Khí người
vừa chịu phép Rửa nhận được" (số 1241); và trong
các Giáo hội đông phương, việc xức dầu thánh như thế
làm nên nghi thức ban bí tích xức dầu thánh, tức là bí
tích Thêm sức (số 1242).
Qua nhiều cách thức khác nhau, ơn Thần Khí
được nhắc đến giữa các hiệu quả của bí tích Rửa tội:
người vừa được rửa tội trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa,
chi thể của Ðức Kitô, đền thờ của Thánh Thần (số 1265); và ơn phép
Rửa "trao ban cho người ấy khả năng sống và hành động theo
đà hướng động của Thánh Thần, nhờ các ơn của
Người" (số 1266). CGLM đã không tách riêng Thần Khí
ra khỏi Ngôi Cha, hay Ngôi Con, và đó là việc làm chí lý: cũng như
các bí tích khác, bí tích Rửa tội là một bí tích tam vị, mở lối cho
chúng ta đi đến với mầu nhiệm và sự sống của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Giáo huấn CGLM dạy có phẩm chất quả là cao.
THÊM SỨC
Trong phần trình bày về bí tích Thêm
sức, hoạt động và sự hiện diện của Thánh Thần đã được
giới thiệu dài rộng: truyền thống của Tây phương cũng như
truyền thống phong phú của Ðông phương đều đã được viện dẫn; các
chiều kích cá nhân và giáo hội của ơn Thần Khí trong bí tích này,
cũng đều được nêu bật. Bí tích Thêm sức hiện đang có khả năng để
biến thành trở lại một lời khẩn cầu rộng lớn Giáo hội
dâng lên để nguy
Trái lại, phần trình bày về bí tích Thánh
Thể thì không đề cập chi nhiều đến Thần Khí, như người ta
hằng mong chờ, và như kết quả của đà nghiên cứu thần học
trong những thập kỷ gần đây cho phép. Ðành rằng, khi mô tả về diễn
tiến việc cử hành phụng vụ Thánh Thể, CGLM đã dành
một đoạn để giới thiệu kinh khẩn cầu Thánh Linh, với nhiều chi tiết
khác nhau trong các truyền thống phụng vụ:
"Trong kinh khẩn cầu (epiclesis),
Giáo hội nài xin Thiên Chúa Cha phái gửi Thánh Thần của
Ngài (hay quyền năng của phép lành Ngài ban xuống trên bánh và rượu,
để nhờ quyền năng của Người mà làm các lễ phẩm ấy trở
thành Mình và Máu Ðức Giêsu Kitô, và để những ai tham dự vào Thánh
Thể thì được trở nên một thân thể và một tinh thần duy nhất. Một
vài truyền thống phụng vụ đặt kinh epiclesis sau
kinh anamnesis (kinh hồi niệm) (số 1353).
Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, lời khẳng định
hay đẹp ấy đã rơi ngay vào quên lãng trong các trang sau đó, tức
là trong phần nhận định thần học về sự hiện diện của
Ðức Kitô trong hình bánh và hình rượu sau khi truyền phép
(các số 1373-1381), một phần viết mang tựa đề đầy hứa hẹn: "Ðức Kitô
hiện diện nhờ quyền năng của Lời Ngài và của Thánh Thần," nhưng
-- một lần nữa -- lại không có được một nội
dung cân xứng; mặt khác, hai trang vừa nói, là những trang lấy ý
từ công đồng Trentô, đã nhấn mạnh nhiều đến sự hiện
diện bản thể và việc biến thể sau các lời truyền phép, nhưng
lại không nói gì đến "quyền năng của Thánh Thần." Chỉ một
lần duy nhất, hai trang này đã nhắc đến Thần Khí, đó là trong số
1375: "Các giáo phụ đã mạnh mẽ khẳng định lòng tin của Giáo hội
vào sức hữu hiệu của Lời Ðức Kitô và của tác động Chúa Thánh
Thần trong việc thực hiện sự biến đổi ấy (bánh rượu thành Mình Máu
Ðức Kitô)." Ðáng lẽ ra, thế hệ giáo phụ 1992 cũng phải khẳng
định cùng một lòng tin ấy trong một cách thức cương quyết hơn
và phong phú hơn (là cách thức trình bày đọc thấy trong CGLM).
Sau nhiều thế kỷ câm lặng trước vai trò Thánh Thần đóng giữ trong
phụng vụ Thánh Thể, các kitô hữu tây phương cần được nghe một lời
khẳng định kích hoạt hơn.
Ðộc giả có cảm tưởng là sau tuyên ngôn
hay đẹp đưa ra trong phần đầu, về hoạt động của Thánh
Thần trong phụng vụ và các bí tích, CGLM đã tỏ ra do dự,
không dám rút tỉa cho đến cùng những hệ luận của lời tuyên bố đó, sợ
làm thay đổi đi hình ảnh và thể dạng thần học sẵn có về Thánh
Lễ Misa, một thể dạng thuần túy kitô học, trong đó Thánh
Thần không tìm thấy được một chỗ đứng nào cả.
Phần viết về chịu lễ -- mang
tựa đề nghe rất hay "bữa tiệc vượt qua," song chỉ có tiếng
mà không có miếng -- cũng phải cam chịu cùng một cảnh
vắng bóng Thánh Thần như thế. Thánh Thần chỉ xuất hiện trong
hai câu trưng dẫn, mà đáng lẽ ra CGLM phải tận dụng khai
thác, chứ không chỉ đơn thuần nêu lên để mặc cho độc giả có chút suy
tư thiêng liêng cứ tùy tiện mà tìm hiểu. Câu trưng dẫn đầu, trích từ
sắc lệnh của công đồng Vaticanô II về thừa tác vụ của các
linh mục, số 5, nói đến việc thông hiệp với thịt của Ðức Kitô phục
sinh, "thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần, và có sức truyền
ban sự sống" (số 1392); câu trưng dẫn thứ hai trích lại lời của
thánh Fulgenxiô, giám mục giáo phận Ruspê (Tuynidi), hồi thế kỷ 4,
nói rằng:
"Chính vì yêu thương mà Ðức Kitô
đã chịu chết cho chúng ta, thế nên khi cử hành việc
tưởng niệm cuộc tử nạn của Người trong phụng vụ hy
lễ, chúng ta cũng phải khẩn xin cho được tình yêu, do
bởi việc Thánh Thần ngự đến; chúng ta khiêm tốn nguyện
rằng nhờ tình yêu ấy, tình yêu đã thúc đẩy Ðức Kitô
ưng nhận chịu chết cho chúng ta, xin cho cả chúng ta
nữa, một khi đã nhận được ơn của Thánh Thần, thì cũng có
được sức năng để coi thế gian như là đã bị đóng đinh vào thập giá đối
với chúng ta, và để sống như là đã bị đóng đinh vào thập giá đối với
thế gian" (số 1394).
Trong phần viết về chịu lễ, độc giả cũng
đã tưởng là sẽ được đọc thấy lời bàn hồ hởi về việc chịu
lễ với chén thánh, tức là chịu Máu thánh, mà công đồng Vaticanô II
đã đặt vào trở lại trong tầm tay của giáo dân Tây phương,
sau nhiều thế kỷ chỉ được dành riêng cho một mình
linh mục; không phải là vô cớ mà Ðức Kitô đã dùng những
dấu chỉ bánh và rượu để thiết lập cuộc tưởng niệm và bữa tiệc vượt
qua của Ngài. Chính CGLM cũng đã viết trong một đoạn
khác, nói rằng: "chén tạ ơn (1Cr 10,16) uống vào lúc
cuối bữa tiệc vượt qua của người Do thái, tạo thêm cho
niềm vui của rượu lễ mừng, một chiều kích cánh chung" (số
1334). Trong Thánh Thể, rượu thường được coi như là biểu tượng của
Thánh Thần, nguồn suối của niềm vui, của hiểu biết và hiệp thông; và
đó là chuyện hữu lý. Lẽ ra CGLM phải nói rằng việc chịu
Máu thánh là dấu chỉ hữu hiệu của việc thông hiệp với Thần Khí của
Ðức Kitô
CÁO GIẢI
Trong phần giới thiệu bí tích Cáo
giải -- mà ngày nay người ta ưa gọi là bí tích của metanoia,
tức là theo nghĩa từ hy lạp, của "việc thay đổi lòng trí":
một cách biểu đạt không gặp thấy ở trong CGLM, -- dĩ
nhiên là Thánh Thần không vắng bóng, nhưng những lời giới
thiệu về Ngài quả là quá ít ỏi, không đủ vào đâu để nói
lên hoạt động phong phú và hùng mạnh của Ngài.
Ðoạn dẫn nhập vào hai bí tích trị liệu,
tức là các bí tích Cáo giải và Xức dầu bệnh nhân,
khẳng định với một niềm hứng khởi đượm đầy tinh thần Phúc
Âm, là Chúa Giêsu, "vị lương y của hồn xác chúng
ta... đã muốn Giáo hội của Người tiếp tục công cuộc trị
liệu và cứu độ của Người, trong sức mạnh của Thánh Thần" qua
hai bí tích Cáo giải và Xức dầu bệnh nhân (số 1421). Một đoạn viết
khác cũng được khơi nguồn hứng từ Phúc Âm, giới thiệu như thế
này về hoạt động của Thần Khí:
Kể từ biến cố Phục sinh mà đi, chính
Thánh Thần là Ðấng "chứng minh cho thấy thế gian sai
lầm về tội lỗi" (Ga 16, 8-9), nghĩa là thế gian
đã không muốn tin vào Ðấng Thiên Chúa Cha phái gửi
đến. Nhưng Thần Khí vạch trần lỗi tội ấy, cũng chính
là Ðấng ủi an hằng tuôn đổ ơn sám hối và hoán cải xuống trong
tâm lòng con người (số 1433).
Nhưng, sau đó, trong phần dựa theo tư
tưởng của công đồng Trentô mà phân tích dài rộng về bí tích Cáo
giải, thì không còn gặp thấy một dấu vết nào nữa
của Thánh Thần. Phải cố gắng lắm mới thoáng nhận ra
bóng Ngài qua hai lần đọc thấy tĩnh từ thiêng liêng,
trong bản văn viết rằng: đi tiếp theo sau bí tích Cáo giải là
"trạng thái bình an và điềm tĩnh của lương tâm, có một niềm an
ủi thiêng liêng lớn đi kèm"
[câu trích dẫn công đồng Trentô].
"Thật vậy, bí tích Hòa giải với Thiên Chúa đem lại một cuộc
phục sinh thiêng liêng thật sự" (số 1468). Trong phần mô
tả thể thức cử hành bí tích, không sao tìm cho ra được dù
chỉ một lời nói đến việc đặt tay, như Sách Nghi thức đã khuyên:
trong bất cứ nghi thức bí tích nào, việc đặt tay cũng mang ý nghĩa
của một cử chỉ khẩn cầu Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên người
đang lãnh nhận bí tích.
Phải chờ cho tới bản tóm lược cuối cùng
mới đọc thấy được đoạn Phúc Âm mong chờ ngay từ lúc đầu,
và là đoạn quan trọng nhất trong toàn bộ Tân Ước, nói về sứ mạng và
năng quyền tha tội:
Chiều hôm Phục sinh, Chúa Giêsu hiện
ra với các tông đồ của Người và nói: "Hãy nhận
lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy
được tha; anh em cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm
giữ" (số 1485).
Nhưng độc giả vẫn ngạc nhiên không hiểu
tại sao câu trưng dẫn ấy lấy từ Ga 20, 22-23 lại bỏ sót
một phần chữ mang theo nhiều ý nghĩa tiềm ẩn; câu viết
của Gioan ghi rằng: "Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và
bảo: Hãy nhận lấy Thánh Thần..." Tại sao lại không nhắc đến cái
hơi thổi nhiệm mầu ấy, cái lần duy nhất Phúc Âm kể lại sự việc Ðức
Kitô thổi hơi vào các tông đồ của Người?
XỨC DẦU BỆNH NHÂN
Trái lại, là bí tích trợ lực, là bí tích
mang lại sức mạnh của Thiên Chúa và của Thần Khí
Người cho người yếu đau, kiệt lực, phép Xức dầu bệnh nhân biểu
thị rõ sự hiện diện và tác động của Thánh Thần. Hai cử chỉ đặt tay
và xức dầu thánh nói lên việc Thần Khí ngự đến và đi sâu vào trong
cõi lòng con người. Trong số 1513, CGLM ghi lại công thức
mới của bí tích Xức dầu:
"Nhờ phép xức dầu thánh này, xin
Chúa nhân từ ban cho con ơn an ủi của Thánh Thần. Và bởi
Người đã giải thoát con khỏi tội lỗi, thì xin Người cũng cứu rỗi và
nâng đỡ con."
Linh mục hoặc (trong các trường hợp cử hành
chung) các linh mục ban bí tích "cầu nguyện cho các bệnh
nhân trong đức tin của Giáo hội: đó chính là kinh khẩn
cầu (epiclesis) của riêng bí tích này" (số
1519). Cuối cùng, giữa những hoa trái bí tích mang
lại, trước hết CGLM đã kể ra (số 1520):
Ân huệ đặc biệt là nhận được
Thánh Thần. Ơn
đầu tiên của bí tích này là ơn trợ lực, bình an và can đảm, giúp cho
khắc phục được những khó khăn gặp phải những khi ngã bệnh nặng
hay là trong cảnh yếu kém bấp bênh của tuổi già. Ơn này
là quà tặng của Thánh Thần do sự việc Ngài củng cố cho lòng cậy
trông và tin tưởng vào Thiên Chúa, tăng cường nghị lực để
có sức mà chống lại những cám dỗ của ác thần, cám dỗ ngã
lòng và hoảng sợ trước cảnh chết. Với ơn trợ giúp ấy, Chúa muốn dùng
sức mạnh của Thần Khí Người mà làm cho bệnh nhân được
khỏe mạnh phần hồn và cả phần xác nữa, nếu đó quả là ý
Chúa. Ngoài ra, "nếu người ấy có tội, thì sẽ được Chúa thứ
tha" (Gc 5,15). Như bí tích Thêm sức đã làm trong buổi đầu
đời sống kitô, thì cũng thế, vào chặng cuối cuộc đời kitô
hay là trong những lúc gặp hiểm nguy sống còn giữa đường đời, bí
tích Xức dầu nêu bật cho thấy vai trò của Thánh Thần.
CHỨC THÁNH
Trong bí tích Chức thánh -- gồm
ba trật bậc là giám mục, linh mục và phó tế -- vai trò
Thánh Thần đóng giữ, là vai trò nào? CGLM đề xuất ngay
một khuôn mẫu suy tư thích đáng với lời tuyên bố nói rằng: bí tích
Truyền chức "trao ban ơn Thánh Thần làm cho có đủ tư cách hành
sử chức quyền thánh, là quyền chính Ðức Kitô thông ban qua Giáo
hội" (số 1538).
Trình bày về giám mục và linh mục, CGLM
chỉ trích dẫn các văn bản của Vaticanô II giới thiệu hai thừa tác vụ
này như là phát nguyên từ Thánh Thần và hằng được sinh lực của Ngài
làm cho sống động. Chỉ xin ghi lại một vài đoạn viết như
sau trong CGLM:
Ðể họ có đủ sức năng chu toàn sứ
mạng cao cả, "các tông đồ đã được Ðức Kitô làm cho
nên phong phú với ơn Thánh Thần ban xuống tràn đầy trên các ngài;
rồi chính các ngài, qua việc đặt tay, lại chuyển trao cho các người
cộng sự của mình ân huệ thiêng liêng ấy, để ơn này được thông truyền
đến tận chúng ta qua phép truyền chức giám mục (Lumen
gentium, 21)" (số 1556).
"Nhờ Thánh Thần các ngài lãnh
nhận, các giám mục đã được đặt làm thầy dạy đức tin,
làm chánh tế và chủ chăn thực thụ và chính thức (Christus Dominus,
2)" (số 1558).
"Chức tư tế của các linh mục... được
trao ban qua một bí tích riêng, có sức ghi dấu vào trong
các ngài bằng một ấn tích đặc biệt, qua việc Thánh Thần
xức dầu, và làm cho các ngài nên giống Ðức Kitô-Linh mục
để nhờ đó các ngài có được quyền nhân danh chính Ðức Kitô là Ðầu mà
hành động (Presbyterorum Ordinis, 2) (số 1563).
Trái lại, trong ba số 1569-1571 bàn về
phép Truyền chức và thừa tác vụ phó tế, đáng tiếc là không
có một lời nào trực tiếp đề cập đến Thánh Thần, mà chỉ
đọc thấy một câu trích dẫn lấy từ Vaticanô II ra (Ad Gentes,
16) nhắc lại rằng các phó tế "được củng cố qua việc đặt tay lưu
truyền từ thời các tông đồ" (số 1571); quả vậy, chính các ngài
đã đặt tay cho bảy người "đầy Thần Khí và
khôn ngoan" (Cv 6,1-6).
Giới thiệu phụng vụ bí tích Chức thánh với
những lời lẽ rất xác đáng, CGLM đã nhận định như sau
về cả ba trật bậc của chức tư tế:
Nghi thức chủ yếu cho cả ba trật bậc của bí
tích Chức thánh, hệ tại ở việc giám mục đặt tay trên đầu người chịu
chức, cũng như ở lời kinh thánh hiến đặc thù cầu xin Thiên Chúa tuôn
đổ Thánh Thần Người xuống và rộng ban những ơn thích
đáng đối với việc thi hành thừa tác vụ mà ứng viên chịu
chức thánh lãnh nhận (số 1573).
Cuối cùng, trong phần bàn về các hiệu quả
của bí tích, CGLM viết rằng "bí tích này ban ơn
đặc biệt của Thánh Thần mà làm cho (ứng viên chịu chức
thánh) nên giống Ðức Kitô, hầu làm khí cụ của Người cho Giáo
hội" (số 1581). Lời khẳng định hay đẹp ấy phù hợp với cả ba bậc
thừa tác vụ giám mục, linh mục và phó tế. Nói cho chính xác hơn, bí
tích Chức thánh mang lại hai hiệu quả: một đàng là "ấn tích
không tẩy xóa được" mà CGLM giới thiệu với nhiều trích dẫn rút
từ công đồng Trentô, và đàng khác là "ơn Thánh Thần" được
trình bày với những trưng dẫn lấy từ Phúc Âm và phụng vụ.
Tuy nhiên, có một vấn đề không thể không đặt ra, đó là: nếu "ơn
Thánh Thần đặc trưng của bí tích này là làm cho nên giống Ðức Kitô
Linh mục, Thầy dạy và Mục tử mà người chịu chức thánh
được đặt làm thừa tác viên" (số 1585), thì ơn ấy tương ứng đúng
với các chức năng của giám mục và linh mục, nhưng lại không phù hợp
với chức năng của phó tế, vì phó tế không phải là tư tế,
và chỉ là người phục vụ chứ không phải là thầy dạy, và
không thường xuyên đóng giữ một vai trò mục tử. Dù vậy, thì vẫn có
một mối liên hệ chặt chẽ -- hay một mạng những mối liên
hệ -- giữa phó tế và Thánh Thần, như hằng thấy rõ ở
trong nghi thức truyền chức phó tế.
Tóm lại, CGLM đã trình bày một cách
thỏa đáng về tác động của Thánh Thần trong bí tích Chức
thánh và trong thừa tác vụ của giám mục và linh mục, cho
dù có tỏ ra không mấy sáng tạo khi bàn đến chức phó tế theo thể dạng phục hồi
mà công đồng Vaticanô II đã miêu trình.
HÔN PHỐI
Hàng thế kỷ qua, bên Tây phương, bí
tích Hôn phối được cử hành mà không bao giờ nghe nhắc
gì đến Thánh Thần, trong khi đó, chắc hẳn Thần Khí tình
yêu, Thần Khí dũng lực và thành tín không thể nào vắng
mặt được ở trong tình phối kết giữa một người nam và một người nữ
yêu thương nhau thật dù vẫn biết rõ cảnh sống bấp bênh của cuộc
đời mình. Cho đến năm 1991, mới đọc thấy được một lời
ấp úng khẩn nguyện Thánh Linh (epiclesis) ở trong
bản mới của cuốn Nghi thức Rôma về hôn phối (chưa được
phổ biến nhiều trong các thứ tiếng địa phương). Vì thế, độc
giả sẽ không khỏi bỡ ngỡ thán phục... cũng như hy vọng nhiều cho
tương lai, khi đọc thấy đoạn viết sau đây trong CGLM:
Những nghi thức khác nhau trong phụng vụ
cử hành hôn phối đều có chứa đựng nhiều lời nguyện chúc
tụng và khẩn cầu để xin Thiên Chúa ban ơn thánh và chúc lành cho đôi
tân hôn, đặc biệt là cho người vợ. Kinh khẩn cầu (epiclesis) của
bí tích này, nguyện xin cho đôi tân hôn nhận được Thánh
Thần, là mối hiệp thông tình yêu giữa Ðức Kitô và
Hội thánh. Chính Người là dấu ấn của giao ước giữa họ, là
nguồn suối sinh khí hằng tiếp trợ cho tình yêu của họ, là sức mạnh
hằng đỡ nâng lòng tín trung nơi họ (số 1624).
Về điểm này cũng như trong một số điểm
khác, CGLM đã đi trước thực tế, và đã lấy phong cách tiên tri mà xác
định. Từ đó, có thể rút tỉa một nhận định chung để nói rằng CGLM quả
đã mở ra một viễn cảnh lạc quan. Nếu trong một số bí tích,
CGLM đã nói lên rõ hoạt động của Thánh Thần, thì
trong một vài bí tích khác, còn nhiều điều cần phải được
nói lên về hoạt động ấy. Nhưng rồi quyền năng của Thần Khí, hằng
hoạt động ở trong cuộc sống Giáo hội và trong đời sống các kitô hữu,
cũng sẽ đi đến chỗ khắc phục xong những trì trệ và quên
sót. Ðược dành trọn để giới thiệu "Thánh Thần và
Giáo hội trong phụng vụ" (các số 1091-1109), bốn trang
viết mạnh mẽ của phần bàn về kế hoạch bí tích, sớm muộn
gì rồi cũng sẽ được ứng dụng trọn vẹn vào trong phần huấn giáo về
các bí tích và về từng bí tích một, không trừ một bí tích nào.
III. Ý KIẾN ÐỀ NGHỊ CHO ÐỢT TÁI BẢN SẮP TỚI
Những trang viết trên đây đã cố gắng nêu
rõ tính chất phong phú của giáo huấn CGLM dạy về các bí
tích, cũng như lưu ý về những điểm thiếu sót hay thiếu nhất quán,
thiếu liên tục gặp thấy trong văn bản của giáo huấn: những điểm
thiếu sót sẽ có thể và sẽ phải được sửa chữa trong đợt
tái bản đã dự kiến. Như đã thấy, đáng chú ý hơn hết là
tình trạng rời rạc, thiếu nhất quán/liên tục giữa phần một (trình
bày về kế hoạch bí tích) và phần hai (giới thiệu từng bí tích một).
Còn những bỏ sót đáng quan tâm nhất thì chủ yếu xoay quanh điểm
này là sự hiện diện của mầu nhiệm vượt qua và của Thánh
Thần đã không được nhắc đến hay không được nhắc đến cho đủ trong một
số trường hợp giới thiệu riêng về từng bí tích. Tiếp theo sau những
nhận định chung vừa nói, xin được ghi thêm ra đây những nhận xét
và đề nghị cụ thể hơn: những đề nghị trực tiếp liên quan đến
một hay một nhóm bí tích.
Ba bí tích khai tâm kitô được
trình bày theo thứ tự cổ điển: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể,
và CGLM đã để lộ rõ thái độ thán phục đối với thứ tự diễn
tiến ấy (số 1212). Nhưng CGLM đã quên đi rằng bên Tây phương, lộ trình
tốt đẹp ấy thường thì không phải là lộ trình diễn ra trong thực
tế, và việc khai tâm kitô thực ra chỉ được tiến hành
một cách chắp nối: trẻ thơ được rửa tội một vài tuần hay
một vài tháng sau khi sinh ra; trẻ em 7/8 tuổi được chịu lễ, nhưng
trước khi chịu lễ lần đầu như thế, các em phải đi xưng tội; cuối
cùng, lúc lên 10 và 18 tuổi, các thanh thiếu niên được chịu bí tích
Thêm sức, nhưng trước đó cũng phải đi xưng tội (số 1310). Như
vậy, trong thực tế, lộ trình khai tâm kitô gồm có 5 giai đoạn: Rửa
tội, Cáo giải, Thánh Thể, Cáo giải trở lại, và Thêm sức. Thế là,
phần diễn giảng cao đẹp mà CGLM đưa ra nhằm mục đích xây dựng
một nền thần học bí tích dựa trên nền tảng của lề lối cử
hành cụ thể của chính các bí tích, chỉ còn xem ra như là một lời bàn
bấp bênh và trừu tượng.
Quy trình theo đó CGLM đã khai triển phần
trình bày về bí tích Thêm sức, cho thấy có hai điều
cần điều chỉnh, đó là: thứ nhất, nên bắt đầu chương
trình bày bằng câu hỏi: "Bí tích này tên là
gì?" nhưng không rõ tại sao câu hỏi đó lại bị bỏ
mất đi, trong khi văn bản vẫn kể ra ba danh hiệu sau
đây được dùng để gọi bí tích: xức dầu thánh, Myron
và thêm sức; và lưu ý cho thấy là mỗi danh xưng đều có
một ý nghĩa và tầm giá trị riêng. Thứ hai, nên xếp phần bàn
"những hiệu quả của bí tích Thêm sức" ở phần cuối chương
giới thiệu bí tích, như trong trường hợp các bí tích khác, chứ không
phải là đặt trước phần bàn về chủ thể và thừa tác viên
như hiện thấy trong văn bản của CGLM.
Liên quan đến bí tích Thánh Thể,
bài viết đã có dịp nêu lên sự việc mầu nhiệm vượt qua đã bị che
khuất mất đi trong phần chịu lễ: phần này được giới
thiệu với tựa đề đầy hứa hẹn này là "bữa tiệc vượt
qua," nhưng lời hứa đã không được giữ, vì văn bản diễn giải đã
không nhắc gì đến việc tín hữu thông dự vào trong cuộc lễ vượt
qua của Ðức Kitô. Bài viết cũng đã nêu lên những điểm yếu
và những đoạn thiếu nhất quán hay rời rạc trong văn bản viết về hoạt
động của Thánh Thần trong bí tích này. CGLM khẳng định rằng
phần khẩn cầu (epiclesis) trong Kinh Tạ ơn, nguyện
xin Thần Khí xuống trên bánh và rượu để dùng quyền năng
của Người mà biến chúng thành Mình và Máu Ðức Kitô, và
nhắc lại rằng một số truyền thống phụng vụ (đông phương) đặt kinh
khẩn cầu ấy vào sau lúc truyền phép và sau kinh hồi niệm (số 1353);
nhưng, một vài trang sau đó, CGLM đã lấy nguyên lại dạng
giáo huấn cổ điển nhất của Tây phương -- một thể dạng
giáo huấn không hề biết đánh giá cho đúng mực tầm quan
trọng của kinh khẩn cầu và qua đó, của vai trò Thần Khí
đóng giữ -- để viết rằng: "sự hiện diện bí tích của
Ðức Kitô bắt đầu lúc truyền phép" (số 1377). Quyền năng của
Thần Khí dù có sức biến đổi bánh và rượu, thì cũng chưa biến đổi
hoàn toàn nổi não trạng con người!
Một cuộc biến đổi não trạng và ngôn ngữ
cũng xem ra cần thiết đối với việc chịu lễ dưới hình bánh
và hình rượu (mà CGLM vẫn gọi là chịu lễ "dưới hai
hình thức" dù đa số người kitô không còn hiểu thuật ngữ thần
học ấy muốn nói gì). Ðức Kitô đã thiết lập Thánh Thể với hai dấu chỉ
bánh và rượu, và trong Phúc Âm, Người tuyên bố rằng: "Nếu các
ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống
nơi mình... vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”(Ga
6,53-55). Thế thì, những lời mạnh mẽ ấy cũng còn nghe ra
"quá chướng tai" đối với các kitô hữu lễ điển Latinh, hệt
như đối với những người xưa kia khi nghe Ðức Giêsu diễn giảng như
thế hay sao? CGLM nhận là "chịu lễ dưới hai hình sẽ làm
cho việc chịu lễ nên trọn vẹn hơn" (số 1390), nhưng,
trước đó, CGLM đã xác định rằng "rước lễ dưới hình
thức bánh không thôi, cũng đủ để lãnh nhận được hết hoa trái ân sủng
của Thánh Thể," và rằng "vì lý do mục vụ, cách chịu lễ như
thế đã chính đáng trở thành cách thức thông thường
nhất trong lễ điển Latinh" (cùng một số 1390). Vậy thì không
còn cần phải đặt nặng vấn đề đối với những lời Ðức Kitô đã nói, và
những dấu chỉ chính Người đã chọn nữa hay sao?
Cuối cùng, nếu đã thực sự chọn được một
lập trường đúng đắn, tức là quyết xây dựng một nền thần học
bí tích cả trên những dữ liệu Kinh Thánh lẫn trên quy
cách cụ thể của việc cử hành các bí tích, thì làm sao có thể cắt
nghĩa được sự kiện CGLM 1992 đã không hề đề cập gì đến việc đồng tế
Thánh Lễ? Từ đồng tế không có mặt ở trong
bảng mục lục, và cả ở trong văn bản cũng không. Trong khi
đó, từ ba nươi năm nay (tháng tư 1965), công đồng Vaticanô II đã
phục hồi việc đồng tế, và nhờ đó nhiều linh mục và tín hữu đã canh
tân được cách sống mầu nhiệm Thánh Thể của mình. Vậy thì
làm sao hiểu nổi sự việc CGLM đã hoàn toàn bỏ quên, không
nói gì đến việc đó! Quả đó là một thiếu sót trầm trọng mà đợt tái
bản sắp tới không thể bỏ sót mà không bổ khuyết được.
Tuy nhiên, phần cần phải sửa đổi tận căn
nhất chính là phần viết về bí tích Sám hối và Hòa giải,
đến độ nếu chỉ phải nhận định về phần này không thôi, thì cũng đáng
để làm một cuộc nghiên cứu sâu rộng. Hẳn là có người sẽ tọc mạch
muốn tìm cho biết về quá trình soạn thảo và hình thành chương
sách này. Cấu trúc của nó khác hẳn với cấu trúc những chương
trình bày về các bí tích khác. Có hai lỗi lầm trong cách xếp đặt cấu
trúc đã làm cho chương vừa nói bị xáo trộn. Lỗi lầm thứ nhất: không
giống như trong các chương viết về các bí tích khác, trong chương
giới thiệu bí tích Cáo giải, không có phần nghiên cứu về các
dữ kiện Kinh Thánh: "Tội lỗi và sự tha thứ trong
kế hoạc cứu độ." Mà đâu phải Kinh Thánh không nói gì
đến tội lỗi: hầu như trang nào trong Kinh Thánh cũng đối diện với
vấn đề tội lỗi và với thái độ Thiên Chúa ứng sử với tội lỗi, từ trình
thuật về sa ngã của Ađam và Evà bị trục xuất ra khỏi địa
đàng, cho tới câu chuyện về người trộm lành, có tài "ăn trộm
thiên đàng," được phúc nghe Ðức Kitô nói cho biết là: "Hôm
nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng." Có vì phải
lo cho kế hoạch tiết kiệm mà phải gạt bỏ mất đi kế hoạch
cứu độ? Toàn bộ suy tư và toàn bộ huấn giáo về bí tích Cáo giải, rút
ra từ suy tư ấy, đều thiếu hẳn nền tảng Kinh Thánh, thiếu hẳn hiểu
biết về thái độ của Thiên Chúa và Ðức Giêsu, Con
của Người, đối với dân tình tội lỗi và con người tội
phạm. Ðã đành là đây đó có đọc thấy những chi tiết nói tới lịch sử
về lòng nhân hậu và thứ tha của Thiên Chúa, nhưng chúng chỉ được nêu
lên một cách ngang ngửa lộn xộn, phân tán rời rạc,
không theo một trật tự nào cả. Mong rằng trũng thiếu sót
trầm trọng ấy rồi cũng sẽ được lấp đầy.
Lỗi lầm thứ hai: là đã đợi cho đến cuối
cùng -- tức là sau một phần dài rộng bàn về
ân xá đại xá -- rồi mới miêu trình về cách thức cử
hành bí tích, và chỉ miêu trình qua loa trong một trang viết.
Trong trường hợp các bí tích khác, đặc biệt là ba bí
tích khai tâm, việc cử hành phụng vụ bí tích được
trình bày ngay sau phần bàn về kế hoạch cứu độ, và dựa
theo cơ sở hai chiều kích ấy, tức là Kinh Thánh và phụng vụ, CGLM đã
có thể phác thảo ra được cả một thể dạng thần học và một
mẫu huấn giáo vững chắc. Còn trong trường hợp của bí tích
Cáo giải, thì không có phần nói về quá trình hình thành ở trong Kinh
Thánh, và cho đến cuối cùng mới đọc thấy phần miêu trình về phụng
vụ. Ðiều đó có nghĩa rằng suy tư thần học và giáo lý đã không được
đặt trên cơ sở dữ liệu Kinh Thánh và kinh nghiệm
phụng vụ, mà chỉ đâm rễ và múc sức hơi... từ trong các
khoản giáo huấn của công đồng Trentô, và từ trong Sách Giáo Lý Rôma
ấn hành năm 1566, được trưng dẫn rất nhiều nơi phần chú thích cuối
trang.
Mới đây, sau khi đối chiếu CGLM với Sách
Nghi thức sám hối, một chuyên gia phụng vụ người Ý đã
nhận định rằng CGLM chỉ nhìn vấn đề theo viễn cảnh ăn năn
tội cách trọn hay không trọn (ái hối/úy hối), còn Sách Nghi thức thì
nhờ biết ứng đáp thích đáng cung cách cụ thể của việc cử hành bí
tích, nên đã nắm vững được tinh thần metanoia của
Phúc Âm làm mạch chủ yếu, bởi vì đó là điều kiện tiên quyết để được
vào (hay vào lại) trong vương quốc của Ðức Kitô.
Xin được góp thêm một số đề nghị về bí
tích Truyền chức thánh. Từ nhiều thế kỷ nay, có một vấn
đề thuật ngữ thường được đặt ra cho tên gọi của bí tích này.
Thần học, môn huấn giáo, giáo luật và cả CGLM nữa, đều gọi bí tích này bằng
danh xưng sacramentum ordinis, sacrement de l'ordre, v.v...
Trong ngôn ngữ thông thường, từ ordo có nghĩa
là "thứ tự," "trật tự," "tập
đoàn/thể," "giới," "hội," "nhóm,"
v.v... như chính CGLM đã nhắc lại rất đúng trong các số
1537-1538. Vậy, nếu muốn diễn đạt cho chính xác và rõ
ràng, thì cần phải gọi là bí tích Truyền chức
(sacrement de l'ordination).
Một nhận xét khác liên quan đến cách thức
CGLM trình bày về chức phó tế. Công đồng Vaticanô II đã
phục hồi nội dung và ý nghĩa của thừa tác vụ phó tế, và
đã cho phép được có những phó tế vĩnh viễn (hiện nay trong toàn thế
giới, có lối 20.000 phó tế vĩnh viễn). Dù có ca ngợi việc tái lập này
của công đồng, và đề ra một số công thức thích đáng có
giá trị đối với việc truyền chức phó tế cũng như đối
với việc truyền chức linh mục hay giám mục, thì CGLM
cũng vẫn thường suy nghĩ theo viễn cảnh của một chức tư
tế không bao gồm các phó tế. Như thế, thì có ứng đáp đúng mức hay
không lòng mong ước muốn được đọc thấy ở trong CGLM một hướng suy tư
đặc thù, mới mẽ hơn và sâu sắc hơn, về thừa tác vụ phó tế?
* * *
Còn có thể đề nghị thêm nhiều ý kiến khác
nữa. Tuy nhiên, cũng nên lưu ý rằng một cuốn sách được soạn
thảo theo phương thức làm việc tập thể và để cho toàn thể
Giáo hội công giáo cùng dùng, thì không thể nào xử lý cho hết mọi
nhận xét và đề nghị được. Chúng tôi chỉ muốn lợi dụng dịp chuẩn bị
đợt tái bản sắp tới đã được loan báo của CGLM, để nêu bật
những điểm son của Bộ Tổng luận giáo lý này, cũng như để
đề nghị vào một thời điểm thuận lợi, một số ý kiến mà chúng tôi nghĩ
là hợp lý, nhằm góp phần vào trong nỗ lực làm cho công tác giới
thiệu giáo lý về bí tích, được cân bằng hơn -- và trong
một số điểm, được nhất quán hơn -- bởi vì đó là phần
giáo lý đóng giữ một vai trò lớn trong việc mời gọi và
giúp cho hết mọi tín hữu kitô gặt hái tốt đẹp "những hoa trái
phát sinh từ mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô, trong việc cử hành
phụng vụ bí tích của Giáo hội" (số 1076).
Philippe Rouillard, o.s.b. [Felipe Gómez Ngô Minh trình dịch, HTTH SỐ 13&14, NĂM
THỨ NĂM (1995)]
CGLM muốn ám
chỉ đến Kinh tạ ơn I trong Sách lễ Roma, số 90, theo bản tiếng Pháp,
Ðức và một vài thứ tiếng khác; còn trong bản tiếng Latinh, Anh, Tây
ban nha, Việt Nam, v.v... thì khác.
Ðộc giả sẽ
ngạc nhiên khi thấy là trong số 1390, CGLM đã thoáng để lộ ra lập
trường ủng hộ lề lối thực hành của lễ điển Latinh cho chịu lễ
chỉ dưới một mình hình bánh mà thôi. Rất may là còn có số
1412 để được đọc thấy một lối trình bày chính xác hơn.
từ Hy lạp này có nghĩa
là dầu thơm.
E. Mazza, "Il
sacramento della penitenza. Un confronto tra il Catechismo della
Chiesa cattolica e il Rito della penitenza," trong Rivista
liturgica 81 (1994) 782-797.
Tác giả làm
giáo sư thần học tại Học viện Ateneo Anselmiano, Roma. Bài
viết nguyên văn tiếng Pháp, tựa đề "La présentation des
sacrements dans le CATÉCHISME DE L'ÉGLISE CATHOLIQUE,
đăng trong tạp chí ESPRIT ET VIE số 16 (20 tháng 4,
1995) 225-236.